TẠI SAO PHẢI THỰC SỰ KHÓ NGHEO VÀ CÔNG BẰNG ĐỂ RAO GIẢNG CHÚA KITÔ CÁCH HỮU HIỆU CHO NGƯỜI KHÁC ? Đức Thánh Cha Phanxiô quả thực là người đă sống và rao giảng cách thuyết phục tinh thần khó nghèo của Phúc Âm nói chung và của Thánh Phanxicô khó khăn thành Assisi cách riêng. Đây là môt gương sáng chói cho mọi người trong Giáo Hội noi theo để Giáo Hội của Chuá Kitô không chỉ rao giảng mà thực sự phải sống tinh thần khó nghèo của Chúa “ Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em để lấy cái nghèo của ḿnh mà cho anh em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8: 9) . Nhưng nghèo khó ở đây không có nghĩa là phải đói rách, vô gia cư về mặt thể lư , mà cốt yếu là phải thực sự khinh chê của cải, tiền bạc và sa hoa vật chất cùng danh vọng phù phiếm ở đời này. Phải khinh chê để không chạy theo và làm nô lệ cho của cải , và tiền bạc , khiến sao nhăng việc trọng yếu hơn là rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô và sống điều ḿnh rao giảng để trở nên nhân chứng đích thực cho Chúa và nhiên hậu thuyết phục được người khác tin và sống điều ḿnh rao giảng cho họ. Phải nói lại điều này một lần nữa, v́ thực trạng sống của hàng giáo sĩ ở trong và ngoài nước quả có mâu thuẫn với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, của Chúa Kitô, Đấng thực sự khó nghèo đến nỗi “ không có chỗ dựa đầu, trong khi chim trời có tổ và con chồn có hang.”(Mt 8: 20) Ai dám nói là Chúa đă đóng kịch khó nghèo, hay dạy ta điều không thể thực hiện được ? Nếu không, th́ quả thật Chúa đă đích thực sống khó nghèo ngay từ khi sinh ra trong chuồng ḅ, lớn lên sống lang thang như người vô gia cư , và chết trần trụi trên thập giá để “hiến dâng mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người” ( Mt 20 : 28) được cứu độ để sống hạnh phúc, giầu sang phú quí với Chúa trên Nước Trời mai sau. Như vậy, rao giảng Chúa cho người khác th́ không thể bỏ quyên nét đặc thù này trong đời sống của Chúa Kitô. Nghĩa là không phải chỉ nói suông, giảng mơ hồ về lư thuyết mà quan trọng là phải thực sự sống cái tinh thần khó nghèo của Chúa từ trong tâm hồn ra đến đời sống bên ngoài , th́ lời giảng dạy của ḿnh mới có sức thuyệt phục người nghe. Nói khác đi, là linh mục, nếu không sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô để ham mê tiền của, chỉ muốn đi đến các xứ giầu có để kiếm tiền, làm thân với người giầu để trục lợi cá nhân , chê lễ có bổng lễ ( mass stipend) thấp , hay không có bổng lễ , để chỉ nhận làm lễ có bổng lễ cao…th́ làm sao nói được là sống “cái nghèo” của Chúa Kitô ? Và như thế, lời giảng dạy của ḿnh về đức khó nghèo sẽ thuyết phục được ai nghe nữa ? |
||
Liên quan đến việc này, phải nói thêm về thực trạng duy nhất chỉ có ở bên nhà. Đó là các linh mục không được trả lương, khiến ít ai muốn đến phục vụ cho những xứ nghèo và ở xa xôi nơi miền quê. Ai cũng muốn đến những xứ giầu có ở thành thị để có được nhiều bổng lộc. Đây là một tệ trạng, bất công gây ra bởi giáo quyền từ bao đời nay đă không quan tâm giải quyết cách thỏa đáng vấn đề này để các linh mục được an tâm phục vụ , không bị chi phối với nhu cầu vật chất thiết thực như có của nuôi thân, có phương tiện chữa bệnh khi đau yếu, có chỗ an dưỡng khi về hưu.Câu ngạn ngữ “ có thực mới vực được đạo” rất chính xác áp dụng vào trường hợp này . Nếu cứ để t́nh trạng hiện này kéo dài, th́ chinh giáo quyền đă và đang là nguyên nhân khiến cho một số linh mục phải bon chen t́m về những xứ giầu , chê xứ nghèo không có nguồn lợi vật chất. Đây là thực trạng phải nh́n nhận để giải quyết , chứ không phải là điều tưởng tượng nhằm phê phán. Tại sao không thể làm được như các giáo hội Âu Mỹ là trả lương tối thiểu đồng đều cho các linh mục đi coi xứ hay làm việc trong giáo phận , c̣n tài sản của giáo xứ th́ thuộc quyền quản trị của giáo xứ.? Nếu giáo xứ không đủ khả năng trả lương theo qui định của giáo quyền địa phương, th́ địa phận liên hệ phải trả lương cho linh mục phục vụ ở các xứ nghèo, thiếu thốn kia.. Có làm được việc này, th́ mới giải quyết được bất công trong việc bổ nhiệm linh mục đi phục vụ ở các xứ đạo trong toàn địa phận. Nói khác đi , nếu cứ duy tŕ t́nh trạng hiện nay, th́ tệ trạng sẽ vẫn tiếp diễn là nếu giáo xứ giầu, th́ cha xứ giầu, xứ nghèo th́ cha xứ không có những phương tiện sống tối thiểu, khiến cứ phải chạy đi đó đâu để kiếm tiền, và sao lăng bổn phận thiêng liêng là rao giảng Tin Mừng và làm nhân chứng cho Chúa Kitô , “ Đấng đến không phải để được người ta phục vu, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người.” Mt 20: 28) Phải chăng v́ thế mà cho đến nay, vẫn c̣n nhiều linh muc và tu sĩ nam nữ thi nhau ra nước ngoài kiếm tiền cho những nhu cầu dường như bất tận ở bên nhà ? Mặc dù ở Mỹ người ta đă cấm xin tiền từ lâu rồi , nhưng ở những nơi có đông người Công giáo Việt Nam như Houston , Dallas, New Orleans và California.. , mỗi Chúa Nhật, người ta vẫn thấy có các cha, các nữ tu đến gặp giáo dân ngoài cửa nhà thờ hay đi đến các tư gia để xin tiền ! Nhưng thử hỏi : tiền xin được đem về có ai biết được là bao nhiêu và dùng vào việc ǵ hay không ? Lại nữa, nếu người này đi và xin được nhiều tiền, th́ sẽ lôi kéo người khác đi theo, và t́nh trạng này sẽ không bao giờ chấm dứt được chỉ v́ hấp lực của đồng dollar, gây trở ngại lớn lao cho người tông đồ lớn nhỏ sống và thực thi tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô. Đây là thực tế không thể chối căi hay biện minh cách nào khác cho hợp lư được. Chưa hết, c̣n tệ trạng này nữa : thông thường trong Giáo Hội, linh mục hay tu sĩ chỉ nên ghi nhớ kỷ niệm thụ phong hay khấn Ḍng của ḿnh được 25 năm ( ngân khánh) hay 50 năm ( Kim khánh) mà thôi. Chứ không bao giờ năm nào cũng kỷ niệm, hay cứ 10 năm, 15 năm, 35 năm, 40 năm lại mừng kỷ niệm để mời nhiều khách đến ăn ở nhà hàng hầu kiếm lợi cho ḿnh và làm phiền cho nhiều người khác. Phải nói là làm phiền v́ lâu lâu lại được mời đi dự kỷ niệm thụ phong, 25 năm 35 năm, 40 năm và sẽ 45 năm.. của ai không biết ngượng, khi cứ mời măi mọi người quen biết đến dự kỷ niệm thụ phong của ḿnh.Muốn mừng nhiều lần như vậy , th́ sao không âm thầm mừng riêng trong gia đ́nh ḿnh thôi, mà lại phải ồn ào mời khách đến nhà hàng để họ phải mừng tiền cho ḿnh làm giầu như vậy, th́ làm sao sống được “ cái nghèo” của Chúa Kitô ? Dù sống ở Mỹ, Canada hay ÚC châu th́ đời sống của giáo dân không phải ai ai cũng có dư tiền của để chi phí xă giao hay làm việc bác ái. Có nhiều gia đ́nh đă than là mỗi tuần nhận được 3, 4 thiệp cưới nên không thể đi dự hết được. Dầu vậy vẫn phải gửi tiền mừng. Nếu mỗi tuần nhận được 2 thiệp cưới lại thêm thiệp mừng 35 năm , 40, 45 năm năm của linh mục nào nữa th́ ngân sách gia đ́nh có lợi tức thấp làm sao cung ứng cho đủ ??? mà nếu cứ phải đi mừng th́ người ta có vui để làm việc này hay không ? Vậy, hăy đặt ḿnh vào trường hợp đa số người có lợi tức thấp , hay những ông bà già sống bằng tiền già hay trợ cấp SSI th́ mời họ đi dự tiệc của ḿnh nhiều lần như vậy có phải là việc xă giao bác ái phải làm , hay chỉ là lợi dụng ḷng tốt của người ta để kiếm lợi cho ḿnh ???. Thử hỏi với số khách mời trên dưới 1000 người và ăn ở nhà hàng sang trọng th́ lợi tức thu về sẽ là bao nhiêu, và người tổ chức dùng số tiền khổng lồ này vào việc ǵ cho xứng đáng và phù hợp với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm mà ḿnh được mong đợi phải sống để làm gương và thuyết phục người khác tin điều ḿnh rao giảng về đức khó nghèo cho họ. Chúa nói “ ai có tai nghe th́ nghe.” ( Mt 13: 43; Mc 7: 16; Lc 8: 8) Chưa hết, ở bên Mỹ c̣n có tệ trạng này nữa , là các linh mục, ở một vài nơi có đông giáo dân VN, thường đua nhau đi “đồng tế” cuối tuần trong các lễ cưới, lễ tang để nhận phong b́ của gia chủ. Đi đồng tế v́ thân quen với gia đ́nh có đám cưới hay tang lễ th́ không nói làm ǵ. Nhưng đi “đồng tế” chỉ v́ được mời cho có đông linh mục để gia chủ được hănh diện với công đoàn giáo xứ, th́ đây là điều không nên làm. Không nên làm để tránh nhận phong b́ của gia chủ , khiến cho ḿnh khó sống tinh thần nghèo khó, v́ linh mục ở Mỹ đều có lương của giáo xứ. Do đó, nếu mỗi cuối tuần kiếm thêm vài ba trăm nữa là điều không cần thiết cho nhu cầu của bản thân . Hơn nữa, c̣n làm cho các gia đ́nh nghèo, không quen biết nhiều linh mục, buồn tủi v́ lễ cưới hay lễ tang của gia đ́nh họ không có nhiều cha đồng tế, |
||
Liên quan đến việc này, tôi thấy cần phải nói lại một lần nữa là ơn Chúa ban xuống cho ai c̣n sống hay đă qua đời tuyệt đối không dính dáng ǵ đến việc có đông hay không có linh mục nào đồng tế. Nếu sống mà không đi t́m Chúa, không yêu mến Chúa trên hết mọi sự, mà chỉ đi t́m những vui thú, lợi lăi tội lỗi ở đời này, th́ khi chết dẫu có cả trăm linh mục , giám mục, hồng y dâng lễ và đồng tế th́ cũng vô ích mà thôi. Ngược lại, nếu đă thực tâm yêu mến Chúa và sống theo đường lối của Người, th́ khi chết, dẫu không có ai làm lễ an táng, hay không có linh mục nào đồng tế th́ cũng không hề thiệt tḥi ǵ về mặt thiêng liêng, v́ đời sống của ḿnh trên trần thế đă đủ để được Chúa đoái thương và ân thưởng phúc trường sinh. Đây là điều các linh mục phải dạy bảo cho giáo dân biết để không ai bị lừa dối chậy theo những vẻ hào nhoáng bề ngoài như đốt nhiều đèn nến trong nhà thờ , kéo chuông ầm ỹ và có nhiều linh mục đồng tế. Liên quan đến việc này, tôi thấy cần phải nói lại một lần nữa là ơn Chúa ban xuống cho ai c̣n sống hay đă qua đời tuyệt đối không dính dáng ǵ đến việc có đông hay không có linh mục nào đồng tế. Nếu sống mà không đi t́m Chúa, không yêu mến Chúa trên hết mọi sự, mà chỉ đi t́m những vui thú, lợi lăi tội lỗi ở đời này, th́ khi chết dẫu có cả trăm linh mục , giám mục, hồng y dâng lễ và đồng tế th́ cũng vô ích mà thôi. Ngược lại, nếu đă thực tâm yêu mến Chúa và sống theo đường lối của Người, th́ khi chết, dẫu không có ai làm lễ an táng, hay không có linh mục nào đồng tế th́ cũng không hề thiệt tḥi ǵ về mặt thiêng liêng, v́ đời sống của ḿnh trên trần thế đă đủ để được Chúa đoái thương và ân thưởng phúc trường sinh. Đây là điều các linh mục phải dạy bảo cho giáo dân biết để không ai bị lừa dối chậy theo những vẻ hào nhoáng bề ngoài như đốt nhiều đèn nến trong nhà thờ , kéo chuông ầm ỹ và có nhiều linh mục đồng tế. Chúa là t́nh thương và giầu ḷng tha thứ. Tuy nhiên , con người cũng phải tỏ thiện chí muốn đáp lại t́nh thương của Chúa bằng quyết tâm từ bỏ ma quỉ và mọi quyến rũ của thế gian và ham muốn tội lỗi của xác thịt. Nếu cứ lấy cớ Chúa nhân từ để buông ḿnh sống theo thế gian, gian tham lừa dối, thay chồng đổi vợ, - nhất là làm sự dữ vô cùng khốn nạn và ghê sợ là hiếp dâm con gái mới 4, 5 tuổi rồi bán chúng cho bọn buôn người vô nhân đạo; theo tin cho biết của một linh mục đang xả thân lo cho các trẻ em nạn nhân, th́ Chúa không thể cứu những người đó được, dù họ có bỏ ra bao nhiêu tiền xin lễ, mời đông linh mục đồng tế khi chết th́ cũng vô ích mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô sống trong thế giới tục hóa ngày nay, mọi người , từ hàng giáo phẩm , giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, đều được mong đợi sống nhân chứng cho Chúa về tinh thần khó nghèo, về đức công bằng, thực thi bác ái, giầu ḷng nhân đạo và trong sạch để đẩy lui bóng đen của tội lỗi, của gian ác và sự dữ vô luân , vô đạo đang lộng hành ở khắp nơi trong và ngoài nước hiện nay. Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
|