Những từ ngữ hàm súc ư nghĩa Văn Hóa trong Văn Chương Truyền Khẩu
Trước khi tiến tới giai đoạn có chữ viết với những sáng tác được ghi chép thành văn,.người dân Việt đă có những câu nói ngắn, gọn có ư nghĩa và những câu hát theo giọng điệu tự nhiên để biểu lộ và gửi gấm t́nh cảm. Họ đă sáng tác những câu nói đó và những câu hát đó rồi lưu giữ chúng dưới dạng truyền khẩu. Đấy chính là Văn-chương truyền khẩu
Văn-chương truyền khẩu không hoàn toàn là sáng tác của người b́nh dân ít học...mà sau này nó được phong phú hóa nhờ vào nhiều câu nói, câu hát của các vị nho sĩ, ẩn sĩ, hàn nho, vào dịp hội hè, hát xướng ở thôn quê, được giới b́nh dân ít học ghi nhớ. Chính v́ thế, Văn-chương truyền khẩu rất phong phú và quan trọng trong kho tàng văn học Việt. Khi nói tới Văn chương truyền khẩu người ta thường nhắc tới hai thứ loại từ ngữ: văn học dân gian và dân ca. Xin mời độc giả khảo sát hai thứ loại tử ngữ này |
||
A- Văn học dân gian Thuộc nhóm Văn học dân gian , chúng ta thường nghe nói tới những từ ngữ sau đây: Truyện Cổ Tích (folk tales), Tục ngữ, Ngạn ngữ, Thành ngữ, Phương ngôn, Cách ngôn, Châm ngôn
Cổ Tích
Truyện Cổ Tích gồm những chuyện ngụ ngôn để răn đời và những chuyện dựng lên trên truyền thuyết hay huyền thoại về thần linh, về vũ trụ, về biến cố lịch sử . Những chuyện Lạc Long quân trừ Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh; Thánh Tản viên (Sơn tinh) ngăn nước lụt... có thể xếp vào loại thần thoại về sự chinh phục thiên nhiên và kỳ tích của anh hùng. Những truyện "Cóc kiện trời", "Tại sao hổ có vằn", "Sự tích loài khỉ", "Sự tích con tu hú", "Sự tích con dă tràng"... có thể xếp vào loại cổ tích về loài vật. Những truyện về Thánh Gióng, Chử Đồng tử, Bánh dầy bánh chưng, Quả dưa đỏ, Sơn tinh Thủy tinh, Thần Kim quy và nỏ thần, Tô thị vọng phu, Thiếu phụ Nam xương... có thể xếp vào loại cổ tích lịch sử. Những truyện Trầu cau, Tấm Cám, Ba vị đầu rau, Túi ba gang (hai anh em và cây khế), Cây tre trăm đốt, Lưu B́nh Dương Lễ, Cái cân thủy ngân, Giết chó dạy chồng... có thể xếp vào loại truyện luân lư. Những chuyện về sự dối trá của thằng Cuội, Trạng Quỳnh lỡm chúa Trịnh, Trạng Lợn gặp may, cũng như những giai thoại về Ba Giai, Tú Xuất... có thể xếp vào loại truyện hài hước.
Thêm vào
đó, dân Việt c̣n có những truyện thần kỳ, thoát tục như Tú Uyên gặp
tiên, Từ Thức lên tiên, và một số truyện ái t́nh
thuần túy như Trưong Chi - Mỵ nương. Một đặc điểm đáng lưu ư của các truyện cổ tích là không có văn bản nhất định. Mỗi người kể lại đều có thể thêm bớt, thay đổi đôi chút cho hợp với khung cảnh và tŕnh độ, thành phần thính giả. Tục ngữ Tục ngữ (tục: thói quen có đă lâu đời; ngữ: lời nói) là những câu nói ngắn, gọn, giàu ư nghĩa, được dùng trong lời nói hàng ngày và lưu truyền từ đời nọ qua đời kia.
Ngạn ngữ
Tục ngữ c̣n được gọi là ngạn ngữ nếu lời trong câu tục ngữ được coi là lời người xưa truyền lại . Ngạn ngữ thường là những câu không dài lắm nhưng ư nghĩa thật hàm súc, tất nhiên phải là "lời hay ư đẹp". Những câu sau đây th́ được coi là ngạn ngữ:
- Điểu tận cung tàng, thố tử cẩu phanh (Hết chim th́ cung bị đem cất, thỏ chết th́ chó săn bị làm thịt; ư nói thói đời bội bạc) - Phú nhuận ốc, đức nhuận thân (Của cải làm cho nhà cửa thành đẹp đẽ; đức độ khiến con người trở nên tươi tắn). Thành ngữ Thành ngữ là một loại tục ngữ đặc biệt, tự nó chưa có ư nghĩa đầy đủ. Thành ngữ chỉ là những cách nói đă định sẵn (set expressions) để mô tả sự vật chứ không biểu thị một ư phán đoán hay khuyên răn nào, chẳng hạn
Đàn gảy tai trâu |
||
Xin lưu ư về Thành ngữ a/- Trong các thành ngữ, có những câu diễn ư so sánh hai sự vật để làm nổi bật việc mô tả, được gọi là những Câu ví. Chẳng hạn:
b/- "Từ láy” có thể lẫn với thành ngữ, "Từ láy”=nhóm từ được h́nh thành theo phép tiệp âm. Nếu chỉ gồm hai chữ, như "lem nhem", "bập bơm", "khật khù", th́ không ai gọi là thành ngữ. Nhưng một khi chúng tự nhân đôi thành nhóm bốn chữ, như "lem nhem luốc nhuốc", "bập bà bập bơm", "khật khù khật khưỡng", th́ cũng có người gọi là thành ngữ.
c/-Đồng dao= nhóm từ trong những bài hát trẻ con lâu ngày có vẻ như thành ngữ. Chẳng hạn bốn chữ "dung giăng dung giẻ". Mấy chữ này nguyên là của bài đồng dao: Giung giăng giung giẻ, dắt trẻ đi chơi... Về sau, người ta dùng rộng, theo ư vui đùa: Sáng hôm qua, tôi gặp cô cậu ấy giung giăng giung giẻ ngoài phố. "Giung giăng giung giẻ" ở đây có nghĩa là vui vẻ nắm tay nhau đi chơi. Dù được dùng nhiều đến đâu, nhóm chữ này cũng không pải là thành ngữ
|
Cách ngôn, Châm ngôn "CÁCH " là phương thức, "CHÂM" là lời răn bảo. Cách ngôn, Châm ngôn là những câu tục ngữ có ư khuyên dạy luân lư.Chúng là những lời nói mẫu mực, đáng noi theo. Đây là những câu Cách ngôn, Châm ngôn
- Tiên học lễ, hậu học văn; - Đói cho sạch, rách cho thơm...
Nên chú ư Cách ngôn, Châm ngôn khác hẳn với Danh ngôn . Danh ngôn: Là những lời nói hay và đúng đến mức sâu sắc, được truyền tụng, được người đương thời và hậu thế nhắc lại.. Một lời nói tuy hay, nhưng của một người không nổi tiếng, khó trở thành danh ngôn. Cũng vậy, một người nổi tiếng, nhưng lúc ngẫu hứng nói một câu ǵ đó, xảo diệu về mặt trí thuật th́ có, nhưng mẫu mực về đạo hạnh th́ không, th́ lời ấy cũng không được coi là danh ngôn. Người ta có trích dẫn th́ cũng là để cười chơi mà thôi. Danh ngôn là của danh nhân. Một đặc điểm của danh ngôn, có thể dùng để phân biệt với cách ngôn, ngạn ngữ, là biết người phát biểu. Trích dẫn danh ngôn, luôn luôn phải ghi tên người nói, có khi c̣n phải ghi hoàn cảnh nói nữa.
Tóm lại, tục ngữ, cách ngôn, ngạn ngữ là khuyết danh, nhưng danh ngôn là của riêng một người.
2- Nguồn gốc của tục ngữ: a/-Phần lớn các tục ngữ nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Ban đầu, có khi chỉ là một câu nói thường nhưng nhờ có ư nghĩa xác đáng, lời lẽ cô đọng, dễ nhớ, được người khác thích thú, nhắc đi nhắc lại. Dần dần, câu nói được trau chuốt và phổ biến rộng hơn. b/-Có những câu vốn là thơ ca có tác giả nhưng nhờ ư đúng, lời hay, được nhiều người lưu tâm một cách đặc biệt rồi tách riêng để truyền tụng. Những câu như:
Thương người như thể thương thân (trong Gia huấn ca ) Chữ "tài" liền với chữ "tai" một vần (trong Truyện Kiều )
c/-Có những câu tục ngữ được dịch từ ngạn ngữ nước ngoài như:
Ở hiền gặp
lành
(Tích thiện phùng thiện - Trung hoa |
||
3-H́nh thức của tục ngữ
Trong tục ngữ có những câu:
Trong tục ngữ có những câu:
c/- Có vần, thường là vần lưng (yêu vận) ở phần lớn tục ngữ Trong tục ngữ có những câu
Trong tục ngữ có những câu:
B- Dân Ca
Thuộc nhóm Dân Ca, chúng ta thường nghe nói tới những từ ngữ sau đây: Ca dao, Đồng dao, Hát ru, Hát Ví, Hát Quan Họ, Hát Trống Quân, Hát Đ̣ Đưa, Hát Ví phường vải. Hát Dặm, Ḥ mái nh́, Ḥ mái đẩy, Ḥ khoan, Ḥ hụi, ḥ giă gạo, ḥ huê t́nh,.. phường nón, ḥ mái nh́,phần lớn là hát huê t́nh ., 1- Cơ bản của Dân Ca Cơ bản của dân ca là Ca Dao Ca: là bài hát thành chương khúc; Dao: là bài hát ngắn, không thành chương khúc Ca dao là những câu hát theo giọng điệu tự nhiên lưu hành trong dân gian, thường diễn tả ư nghĩ, t́nh cảm, nếp sinh hoạt của đại chúng b́nh dân. Ca dao c̣n được gọi là phong dao ("phong" là phong tục). Người xưa cho rằng qua ca dao có thể nhận biết phong tục tốt, xấu của một xứ, một vùng. Ca dao được dùng để ca hát trong nhân dân cho nên cũng gọi là dân ca.. Sau này tân nhạc nổi lên, áp dụng nhạc Tây phương vào trong ca dao cho nên loại tân nhạc này cũng được gọi là dân ca.
Đại để ca dao thường làm theo các thể sau đây:
6*-Ngũ ngôn hay ngũ ngôn biến thức
( chen
những câu bốn hay 6, 7 chữ)
2- Biệt loại dân Ca từ Ca Dao
a/- ĐỒNG DAO |
||
Hát ru là hát ru con, chỉ có mẹ và con, bà và cháu hay chi và em. Hát ru không cần âm nhạc ḥa hợp.Ở đâu cũng có hát ru. Các nước phần lớn có hát ru. Hát ru có thể dùng mọi lối. Khắp nước ta hát ru thường dùng thể thơ lục bát, và các thể thơ khác, Người ta cũng ru con bằng Kiều, Phan Trần, Lục Vân Tiên. c/- HÁT VÍ Hát ví là biệt loại thứ ba của ca dao.
Nghệ thuật của ca dao là dùng thể ví.
lấy truyện này để ví hay khêu gợi truyện khác ví người nọ với
người kia. Theo Tự Điển Khai Trí Tiến Đức,
ví là
so sánh,.,.
Người khôn
nói lắm dẫu hay cũng nhàm Xấu người đẹp nết c̣n hơn đẹp người.'
Tuy nhiên, nhiều bài ca dao không có sự so sánh mà cũng gọi là ví, là v́ họ quan niệm ví là ḥ hát , đối đáp giữa nam và nữ, là lối hát huê t́nh cho nên có người mỉa mai hát ví:
Anh cho một cái cơng con về nhà. |
- lời ca của bài ca - động tác sinh hoạt - - nghệ thuật kết cấu câu ca
a/-Về lời ca th́ có ḥ mái nh́, ḥ mái đẩy, ḥ khoan, ḥ hụi v́ trong bài, khởi đầu hay sau một đoạn th́ cả nhóm cùng hát lên ḥ khoan, ḥ hụi, là hố...Các loại ḥ này dù tên khác nhau nhưng đều là ca hát trên sông nước. Người ta gọi hát c̣ lả v́ khởi đầu có câu Con c̣ bay lả bay la..
Hát quan họ
là sinh hoạt đối đáp giữa nam và nữ có các quan viên các nơi tới
tham dự. Quan là những người
có chức quyền,làm việc trong triều đ́nh hoặc các bộ viện hay
xă thôn. Nhưng quan viên cũng là nói chung một cách tôn trọng những
quư khách.
Mở đầu thường có cặp lục bát sau mới đến bài ngũ ngôn, nhưng phần nhiều vào ngay ngũ ngôn. Có những câu lập lại cho nên lối hát này là lối hát dặm hay dậm.(Dặm hay Dậm là thêm vào, lập lại, đan vào, chêm vào). Cũng như điệp khúc của âm nhạc, là sự lập lại, nhưng hát dặm thỉnh thoảng trong bài, khoảng năm hay mười câu mới có một câu lập lại:
Lo tư gia nội trợ/Lo cửa nhà nội trợ… |
||||
Các loại dân ca thường có ba bước.
1/- Bước thứ nhất là chào hỏi 2/- bước thứ hai là tỏ t́nh 3/ -bước thứ ba là kết thúc để ra về
Ở bước thứ hai là tỏ t́nh, th́ nam nữ thường hát đối đáp, mà phần lớn là đối đáp. Đây là tṛ chơi trí tuệ, cũng nằm trong loại câu đố của văn chương truyền khẩu nước ta. Loại đối đáp này đều phổ thông trong các dân ca ba miền.Các loại hát đối đáp có thể chia làm hai loại: đơn ca hay hợp ca. Có thể vừa đơn ca vừa hợp ca. Ngày nay, trong nhiều clip là hợp ca nhưng thực tế e không phải thế. V́ khi đối đáp, có những cá nhân đặt ra câu mới th́ bên phe khác cũng phải t́m câu mới mà trả lời, cho nên không có hợp ca trong trường hợp này. Thường th́ hợp ca lúc mới vào và lúc ra về
5-Thể thơ trong Dân Ca Nói chung các loại dân ca dùng các thể lục bát và các thể khác mà Ca Dao xử dụng . Các loại này là ca hát, là văn nghệ trong quần chúng hay trong các lễ hội cho nên đôi khi có nhạc, và có nam nữ hai phe đối đáp. 6-Xử dụng một bài Dân Ca Cùng một bài ca dao, người ta có thể dùng để hát ru, hát dặm, hát trống quân, hát quan họ, hát xẫm thiên hóa vạn biến . Các bài hát ví dặm ở Nghệ Tĩnh B́nh cũng có thể thấy ở những bài ḥ khoan, ḥ hụi, ḥ giă gạo ở Huế (như bài hát ví phường vải Nghệ An giống ḥ giă gạo ở Huế). Hát ru có thể là hát dặm .Nói hát ru là nói về mục đích, c̣n nói về hát dặm là nói về kết cấu bài thơ, có những câu lập lại. Hát ru th́ cá thể và im lặng. Mẹ ru con, chị ru em. Hát dặm dùng cho mục đich ru con mà cũng dùng trong trai gái đối đáp trao t́nh. Hát ru là cá thể và im lặng.C̣n hát dặm có thể hợp ca, th́ có nhạc, trống, phách . Xin liệt kê vài bài hát
|
||||
H̉ GIĂ GẠO (Huế) <-----------
Xin click để nghe và coi video)
Nữ ḥ: Khoan ơi khoan mời bạn khoan là ḥ lơ ơ ơ ...... hờ hờ ơ ơ... hết Hạ, Thu sang mùa màng rộn ră, chừ ở đây tui mở lời chào tất cả con lại bà con ḥ ơ ....... Muốn thân nhau mượn câu ḥ tiếng hát, tâm sự đổi trao Chừ xin mời thanh niên nữ với nam, ḥ ơ ơ ơ .... Thanh niên nam nữ ta mạnh dạn bước vào chơi là ḥ chơi ḥ ơ ơ ơ.....
Này hỡi anh ơi, chừ em hỏi anh ń Trong trăm loại dầu có dầu chi là dầu không thắp Trong trăm thứ bắp có bắp chi là bắp không rang Trong ngàn thứ than có than chi là than không quạt Trong hàng thứ bạc có bạc chi là loại bạc không đổi tiêu mà không tiêu ?
Trai nam nhi bên chàng đối đặng Dải lụa điều (đào) trao là em trao. ḥ ơ ....
Nam ḥ:
Trong trăm loại dầu có nắng dăi mưa dầu là loại dầu không thắp Trong trăm thứ bắp có lắp bắp mồm lắp bắp miệng là bắp không rang Trong ngàn thứ than có than thở thở than là than không quạt Trong hàng loại bạc có bạc t́nh bạc nghĩa là bạc không đổi tiêu mà không tiêu
Trai nam nhi anh đă đối đặng th́ dải lụa điều đâu có đâu lại có đâu ḥ ơ.....
Nữ ḥ:
Chứ em hỏi anh ń Chữ chi là chữ chôn xuống đất Chữ chi là chữ cất lên cao Chữ chi nặng mà không ai mang nỗi Chữ chi mà gió thổi bay là không bay?
Trai nam nhi bên chàng đối đặng Miếng trầu cay ḥ ơ ơ ơ..... là cho chàng
Nam ḥ: Hai chữ tiền tài anh bỏ xuống đất Hai chữ nhân nghĩa anh cất trên cao Hai chữ nhớ thương muốn tha không nỗi Chữ t́nh chữ nghĩa gió thổi bay cũng không bay
Trai nam nhi anh đà đối đặng Gái xuân thời em tính răng?
ḥ lờ ơ ơ... là ḥ là khoan .... Nữ ḥ:
Đi mô cho thiếp theo cùng đói no thiếp chịu lạnh lùng mà thiếp cũng cam ḥ ơ ơ......
Nam ḥ:
Yêu nhau tam tứ núi anh cũng trèo ngũ lục sông anh cũng lội thập bát đèo anh cũng qua. ḥ lơ ớ ơ là ḥ là khoan ..... là ḥ là khoan!
|