Phương cách  bảo tồn  

                             DÂN TỘC TÍNH QUÊ HƯƠNG

                                          Biên soạn:  Phạm xuân Khuyến

 

 

Lịch sữ  quê hương Việt  chứng tỏ rằng  mặc dù sống dưới chế độ nô lệ Bắc thuộc trên ngàn năm, các sách vở Việt  bị  đốt hết, chữ viết Việt bị tiệu diệt, đơn từ  giao dịch chỉ bằng chữ Hán,  nhưng dân tộc tính Việt vẫn tồn tại, v́ người Việt  cứ nói tiếng Việt,  đồng thời cứ xử dụng văn học truyền khẩu liên lạc với nhau trong các sinh hoạt hàng ngày.  

Ngày nay người Việt đang sống ở hải ngoại, nơi mà ngôn ngữ hàng ngày của dân địa phương là tiếng Anh, tiếng  Pháp, tiếng Đức  th́ tất nhiên tiếng Việt dần dần  sẽ  bị quên lăng và dân tộc tính dần dần sẽ mất đi. Như vậy, môi trường sống hiện tại phần nào giống môi trường thời Bắc thuộc  nếu đứng về mặt văn hóa mà nói.

quocvan

Để  có thể sống ở hải ngoại, hưởng tiện nghi của đời sống  văn minh với thế giới năm châu,  mà vẫn c̣n  DÂN TỘC TÍNH VIỆT, th́  người Việt phải tiếp tục  cứ nói tiếng Việt và cứ xử dụng  văn học truyền khẩu Việt  khi có những sinh hoạt  trong cộng đồng của ḿnh.

   I- Cứ Nói Tiếng Việt

Việc Cứ  nói tiếng Việt  cần đến  sự quan tâm  của các bậc cha mẹ, của các bậc lănh đạo tinh thần tôn giáo, của  Cộng đồng người Việt, và của các  cơ quan truyền thông Việt  như các đài Phát Thanh Việt và các đài Vô tuyến truyền h́nh Việt.

 
   

1/ Các bậc  Ông Bà  Cha mẹ

quocvan

 

  Các con em Việt suốt ngày sống trong học đường, học văn hóaTây Phương, xử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp trong các sinh hoạt v.v.v .  Giới trẻ đi làm công sở, hoặc xưởng thợ, thường ngày giao tiếp với xă hội bằng tiếng Anh tiếng Pháp. Chiều tối  hay vào những ngày cuối tuần, những thành viên trong gia đ́nh mới có  thời gian ngắn ngủi gặp gỡ nhau.  Các chủ gia đ́nh hăy làm cách nào để cho mọi lứa tuổi trong gia đ́nh cứ nói tiếng Việt  với nhau  để  hiểu nhau:  cháu chắt nói chuyện với ông bà , con cái nói chuyện với cha mẹ.. Có như vậy, th́  tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ và ông bà, sự tôn kính tổ tiên, và t́nh mẫu tử t́nh phụ tử  mới  bền chặt   và  gia đ́nh mới đầm  ấm.

2/  Các bậc lănh đạo tinh thần  tôn giáo. 

 Các quí vị lănh đạo tinh thần tôn giáo  đều công nhận rằng  giáo đường và  chùa chiền  là những nơi nuôi dưỡng  tinh thần đạo đức của các tín đồ. Các quí vị đều biết rằng đạo nắm phần quan trọng trong đời sống đạo đức của mọi người. Có đạo đức, th́ các con em mới yêu mến cha mẹ ông bà, tôn kính tổ tiên, thương anh em chị em trong gia đ́nh.  Bởi vậy, giáo đường và  chùa chiền cần phải  động viên cho có  nhiều ngườiI đến. Xin quí vị kiên nhẫn và sáng kiến t́m những cách qui tụ các em lại để các em sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của quí vị. Khi hướng dẫn các em, các quí vị cứ nói tiếng Việt  càng nhiều càng tốt,và kích động các em   cứ nói tiếng Việt .

3/  Các vị lănh đạo Cộng Đồng

 Các quí vị có cơ hội qui tụ  các bậc gia trưởng, các hội đoàn  chung nhau xây dựng cộng đồng lớn mạnh trong tinh thần  đồng hương, thương yêu, đoàn kết  giúp đỡ nhau. Một khi cộng đồng  lớn mạnh trong tinh thần đó,  th́ giới trẻ  và con em của quí vị sẽ thích tham gia, sinh hoạt và  đương nhiên giới trẻ và các em  được kích động cứ nói tiếng Việt  với nhau một cách hồ  hởi.  Xin các quí vị hăy cố gắng nhắc nhở cho các bậc gia trưởng, cho các hội đoàn trưởng kích động mọi người Việt  đạt tới  tinh thần nêu trên.  Xin các quí vị  lănh đạo cộng đồng  kiên tŕ tổ chức các lớp học  truyền bá quốc ngữ , tổ chức  các cuộc thi đua cứ nói tiếng Việt  với nhau,  và tổ chức  các buổi thuyết tŕnh bằng tiếng Việt .

4/  Các đài truyền h́nh và các dài phát thanh  Việt

 Các quí vị có cơ hội nắm ngành truyền thông Việt, đương nhiên là các quí  vị có sứ mệnh truyền bá, bảo tŕ văn hóa Việt, củng cố dân tộc tính quê hương  tại hải ngoại .  Các quí vị có thể bàn  đến chính trị. Làm chính trị  là một phần nghĩa vũ yêu nước. Điều đó tốt.  Các quí vị có thể quảng cáo nhiều dịch vụ để có thêm đồng tiền chi phí.  Điều đó cũng tốt thôi. Nhưng các quí vị  quên sứ mệnh  của ngành truyền thông là phải phục vụ lợi ích văn hóa của cộng đồng  Việt. Thực tế  các quí vị dành trọn thời gian cho  chính trị và quảng cáo mà  bỏ rơi  hoàn toàn  lănh vực truyền bá văn hóa Việt cho giới trẻ Việt. Các quí vị quên rằng chính trị chỉ có giá trị nhất thời, c̣n vấn đề phát huy và  bảo tŕ văn hóa nơi  con em và  giới trẻ hải ngoại mới c ó giá trị trường cửu.  Vậy xin các quí vị hoạch định chương tŕnh văn hóa cho giới trẻ, đồng thời kích động giới trẻ  cứ nói tiếng Việt,  tạo cơ hôi  cho các em  phát biểu trên đài bằng tiếng Việt.   Đấy là sứ mệnh của các vị   lănh nhiệm vụ  truyền thông .

 
   

II-  Cứ Sử  Dụng Văn Học Truyền Khẩu

Văn học truyền khẩu là điều kiện h́nh thành dân tộc tính mạnh nhất. Nếu được nghe và được cơ hội thực hành nội dung văn học này, trẻ em sẽ thấm nhuần dân tộc tính Việt. Bởi vậy, các bậc cha mẹ, các vị lănh đạo cộng đồng và tôn giáo, các vị  nắm giữ ngành truyền thông  nên quan tâm phát động  phổ biến văn học truyền khẩu một cách quy mô và rộng răi.

Thuộc nhóm Văn học truyền khẩu, chúng ta thường nghe nói tới: Truyện Cổ Tích (folk tales), Tục ngữ,  Ca  Dao,  Dân Ca .   Xin giới thiệu sơ qua:                 

1- TRUYỆN CỔ TÍCH

 Truyện Cổ Tích gồm:

-Những chuyện ngụ ngôn để răn đời và những chuyện dựng lên trên truyền thuyết hay huyền thoại  về thần linh, về vũ trụ, về biến cố lịch sử. Những chuyện Lạc Long quân trừ Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh, Thánh Tản viên (Sơn tinh) ngăn nước lụt...  có thể xếp vào loại thần thoại về sự chinh phục thiên nhiên và kỳ tích của anh hùng.

Những truyện "Cóc kiện trời", "Tại sao hổ có vằn", "Sự tích loài khỉ", "Sự tích con tu hú", "Sự tích con dă tràng"...  có thể xếp vào loại cổ tích về loài vật.

 
 

 

--Những truyện về Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Bánh dầy bánh chưng, Quả dưa đỏ, Sơn tinh, Thủy tinh, Thần Kim quy và nỏ thần,  Thiếu phụ Nam xương...Tô Thị vọng phu--------------->

có thể xếp vào loại cổ tích lịch sử.

-Những truyện Trầu cau, Tấm Cám, Ba vị đầu rau, Túi ba gang (hai anh em và cây khế), Cây tre trăm đốt, Lưu B́nh Dương Lễ, Cái cân thủy ngân, Giết chó dạy chồng... có thể xếp vào loại truyện luân lư.

-Những chuyện về sự dối trá của thằng Cuội, Trạng Quỳnh lỡm chúa Trịnh, Trạng Lợn gặp may, cũng như những giai thoại về Ba Giai, Tú Xuất... có thể xếp vào   loại truyện hài hước    

Thêm vào đó, dân Việt c̣n có những truyện thần kỳ, thoát tục như Tú Uyên gặp tiên,Từ Thức lên tiên, và một số truyện ái t́nh thuần túy như Trưong Chi-Mỵ nương.
-Một số truyện cổ tích (như các truyện Trăm trứng trăm trai,Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa.) cũng là truyện cổ tích của nhiều sắc dân thiểu số  Việt .

Một đặc điểm đáng lưu ư của các truyện cổ tích là không có văn bản nhất định. Mỗi người kể lại đều có thể thêm bớt, thay đổi đôi chút cho hợp với khung cảnh và tŕnh độ, thành phần thính giả.  

 
   

2-  TỤC NGỮ

quocvan

Tục= thói quen có đă lâu đời; ngữ= lời nói.   Tục ngữ là những câu nói ngắn, gọn, giàu ư nghĩa, được dùng trong lời nói hàng ngày và lưu truyền từ đời nọ qua đời kia.

  • Học thầy không tày học bạn.
  • Lửa thử vàng, gian nan thử sức
  • Ăn trông nồi ngồi trông hướng-------->

Nguồn gốc:

a/-  Phần lớn các tục ngữ nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Ban đầu, có khi chỉ là một câu nói thường nhưng nhờ có ư nghĩa xác đáng, lời lẽ cô đọng, dễ nhớ, được người khác thích thú, nhắc đi nhắc lại. Dần dần, câu nói được trau chuốt và phổ biến rộng hơn.

b/-Có những câu vốn là thơ ca có tác giả nhưng nhờ ư đúng, lời hay, được nhiều người lưu tâm một cách đặc biệt rồi tách riêng để truyền tụng. Những câu như:

Thương người như thể thương thân  (trong Gia huấn ca )

Chữ "tài" liền với chữ "tai" một vần   (trong Truyện Kiều )

c/-Có những câu tục ngữ được dịch từ ngạn ngữ nước ngoài như:

Ở hiền gặp lành                                     (Tích thiện phùng thiện - Trung hoa)
Có công mài sắt, có ngày nên kim         (Ma chử thành châm - Trung hoa)
Lửa cháy đổ dầu thêm                            (Hỏa thượng thiêm du - Trung hoa)
Thời giờ là tiền bạc                                  (Time is money - Anh)
Muốn là được                                          (Vouloir, c'est pouvoir - Pháp)

H́nh thức
a/Không vần, chỉ có ư đối

Giơ cao, đánh sẽ.        

Ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài
No nên bụt, đói ra ma


b/-Không vần, không đối, chỉ
cốt ư đúng, lời gọn:

 

Mật ngọt chết ruồi       

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

 

c/- Có vần, thường là vần lưng (yêu vận)


Ăn cây nào rào cây ấy                        Phép vua thua lệ làng
Con có cha như nhà có nóc              Một giọt máu đào hơn ao nước lă
Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy

d/-Đôi khi có cả vần chân (cước vận)

  Khôn cho người rái,                                Dở dở ương ương,
 
Dại cho người thương,                     
Tổ cho người ghét.

 
 

 

Xin lưu ư

1/-  Tục ngữ c̣n được gọi là ngạn ngữ nếu lời trong câu tục ngữ được coi là lời người xưa truyền lại. Ngạn ngữ  thường  là những câu không dài lắm nhưng ư nghĩa thật hàm súc,  tất nhiên phải là "lời hay ư đẹp".

Những câu sau đây th́ được coi là ngạn ngữ:

  - Điểu tận cung tàng, thố tử cẩu phanh    (Hết chim th́ cung bị đem cất, thỏ chết th́ chó săn bị làm thịt; ư nói thói đời bội bạc)

  - Phú nhuận ốc, đức nhuận thân    (Của cải làm cho nhà cửa thành đẹp đẽ; đức độ khiến con người trở nên tươi tắn).

2/-Thành ngữ  là một loại tục ngữ đặc biệt, tự nó chưa có ư nghĩa đầy đủ. Thành ngữ chỉ là những cách nói đă định sẵn (set expressions) để mô tả sự vật chứ không biểu thị một ư phán đoán hay khuyên răn nào, chẳng hạn

Đàn gảy tai trâu,                  Đáy bể ṃ kim,                       Nói hươu nói vượn
Gần đất xa trời,               Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa,                 Ngậm bồ ḥn làm ngọt
Cảnh trứng chọi với đá,                 Chốn miệng hùm nọc rắn,              Xứ tiền rừng bạc biển
..

 Xếp vào loại thành ngữ những Câu ví :
Lạnh như tiền,             Thẳng như ruột ngựa,               Chắc như đinh đóng cột,
Dốt đặc cán mai,                 Lúng túng như thợ vụng mất kim.

 
 


3/-   Phương ngôn là những câu nói có ư nghĩa hẹp hơn tục ngữ được dùng trong một vùng, một địa phương chứ không phổ biến khắp nước

4/-   Cách ngôn, Châm ngôn

"CÁCH " là phương thức, "CHÂM" là lời răn bảo.  Cách ngôn, Châm ngôn là những câu tục ngữ có ư khuyên dạy luân lư.Chúng những lời nói mẫu mực, đáng noi theo. Đây là những câu Cách ngôn, Châm ngôn:

- Tiên học lễ, hậu học văn;     

   Đói cho sạch, rách cho thơm...

 

3-  CA DAO & DÂN CA

 

(Ca: là bài hát thành chương khúc; Dao: là bài hát ngắn, không thành chương khúc). Ca dao là những câu hát theo giọng điệu tự nhiên lưu hành trong dân gian, thường diễn tả ư nghĩ, t́nh cảm, nếp sinh hoạt của đại chúng b́nh dân.
Ca dao c̣n được gọi là phong dao ("phong" là phong tục). Người xưa cho rằng qua ca dao có thể nhận biết phong tục tốt, xấu của một xứ, một vùng. Ca dao được dùng để ca hát trong nhân dân cho nên cũng gọi là dân ca..

Đại để ca dao thường làm theo các thể sau đây:

1*- Nói lối (mỗi câu 4 chữ
):
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày

 Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp
 
   

quocvan

2*- Lục bát chính thức:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh

Trúc xinh trúc mọc đầu đ́nh
Em xinh em đứng một ḿnh cũng xinh
.

3*- Lục bát biến thể:

Con c̣ mà đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm  lộn cổ  xuống ao.

Ông ơi, ông vớt tôi vào!

Tôi có ḷng nào, ông hăy xào măng.

Có xào, th́ xào nước trong,

Đừng xào nước đục  đau ḷng  c̣ con.

 

4*- Song thất lục bát chính thức:

Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc
Con chàng c̣n trứng nước thơ ngây

 Có hay chàng ở đâu đây
Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng


5*- Song thất lục bát biến thể:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đă có chồng, anh tiếc lắm thay!

6*- Phối hợp nhiều thể khác nhau:
Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết thương chàng cha mẹ nào hay
Có hay th́ nhất đánh nh́ đày Hai lẽ mà thôi
Thủy chung em giữ trọn mấy lời
Chết em chịu chết, ĺa đôi em không ĺa.

 

Dân Ca
Dân Ca là bài Ca dao được dùng để ca hát trong nhân dân


1/ Dân Ca biệt loại


a/- ĐỒNG DAO
Biệt loại thứ nhất của ca dao là đồng dao ("đồng": trẻ con). Đồng dao là những bài hát dành cho trẻ con, toàn bài nhiều khi chỉ là một số câu có vần ghép lại với nhau, không có ư nghĩa rơ rệt. Tuy nhiên, đồng dao có thể giúp trẻ học một số danh từ về các vật thường gặp. Chẳng hạn:
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cửa nhà trời
Lạy cậu lạy mợ

Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp...
   

 

b/- HÁT RU


Hát ru là hát ru con, chỉ có mẹ và con, bà và cháu hay chị và em. Hát ru không cần âm nhạc ḥa hợp
.


Công thầy ngăi mẹ
Đừng tiếng băm nặng lời
Đừng cả tiếng rộng hơi
Mắng trả người sao nên


Điệu Ru

Ru con , con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Có Bà Triệu Tướng cỡi voi bành vàng----------------->


c/- HÁT VÍ


Lấy truyện này để ví, hay khêu gợi truyện khác ví người nọ với người kia.
Theo Tự Điển Khai Trí Tiến Đức, Ví là so sánh. đôi khi rơ ràng, đôi khi so sánh kín đáo, Chẳng

hạn
'Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn

Xấu người đẹp nết c̣n hơn đẹp người

 

có thể là ḥ hát, đối đáp giữa nam và nữ, là lối hát huê t́nh cho nên có người mỉa mai hát ví:
Ví ví von von
Anh cho một cái cơng con về nhà
.
 
   

2/ Thể loại Dân Ca
được gọi tên tùy theo:.
- lời ca của bài ca , - động tác sinh hoạt , - nghệ thuật kết cấu câu ca

 

Về lời ca
th́ có ḥ mái nh́, ḥ mái đẩy, ḥ khoan, ḥ hụi. Người ta gọi hát c̣ lả v́ khởi đầu có câu Con c̣ bay lả bay la.


Về động tác sinh hoạt
th́ có hát đ̣ đưa, hát quan họ, hát trống quân.
Hát quan họ là sinh hoạt đối đáp giữa nam và nữ có các quan viên các nơi tới tham dự. Quan là những người có chức quyền,làm việc trong triều đ́nh hoặc các bộ viện hay xă thôn. Quan có thể là những quư khách.
Họ là họ hàng. Họ cũng có nghĩa là một nhóm đông, một tập thể như họ đạo. Họ có thể do chữ Hội mà ra
là hội họp, tụ hội.
C̣n trống quân là nam nữ ca hát có cái trống ở giữa, vừa hát vừa đánh trống th́ thùng, đệm cho câu hát.

Về nghệ thuật kết cấu câu ca
th́ có hát dặm hay dậm .
Mở đầu thường có cặp lục bát, sau mới đến bài ngũ ngôn, Có những câu lập lại cho nên lối hát này là lối hát dặm hay dậm.(Dặm hay Dậm là thêm vào, lập lại, đan vào, chêm vào).

Trong ba thể loại Dân Ca nêu trên thường có ba bước.
1/- Bước thứ nhất là chào hỏi
2/- bước thứ hai là tỏ t́nh
3/ -bước thứ ba là kết thúc để ra về


Ở bước thứ hai là tỏ t́nh, th́ nam nữ thường hát đối đáp, mà phần lớn là đối đáp. Đây là tṛ chơi trí tuệ, cũng nằm trong loại câu đố của văn chương truyền khẩu nước ta. Loại đối đáp này đều phổ thông trong các dân ca ba miền. Các loại hát đối đáp có thể chia làm hai loại: đơn ca hay hợp ca. Có thể vừa đơn ca vừa hợp ca. Ngày nay, trong nhiều clip là hợp ca nhưng thực tế e không phải thế. V́ khi đối đáp, có những cá nhân đặt ra câu mới th́ bên phe khác cũng phải t́m câu mới mà trả lời, cho nên không có hợp ca trong trường hợp này. Thường th́ hợp ca lúc mới vào và lúc ra về

3/ Thể thơ trong Dân Ca
Nói chung các loại dân ca dùng các thể lục bát và các thể khác mà Ca Dao xử dụng . Các loại này là ca hát, là văn nghệ trong quần chúng hay trong các lễ hội cho nên đôi khi có nhạc, và có nam nữ hai phe đối đáp.

 
 

 

3/ Xử dụng một bài Dân Ca
Cùng một bài ca dao, người ta có thể dùng để
hát dặm, hát trống quân, hát quan họ, hát xẫm thiên hóa vạn biến . ……
Xin liệt kê một bài
Dân Ca


Nữ ḥ:


Khoan ơi khoan mời bạn khoan là ḥ lơ ơ ơ ......
hờ hờ ơ ơ... hết Hạ, Thu sang mùa màng rộn ră, chừ ở đây tui mở lời chào tất cả con lại bà con ḥ ơ .......

Muốn thân nhau mượn câu ḥ tiếng hát, tâm sự đổi trao
Chừ xin mời thanh niên nữ với nam, ḥ ơ ơ ơ ....
Thanh niên nam nữ ta mạnh dạn bước vào chơi là ḥ chơi ḥ ơ ơ ơ.....

Này hỡi anh ơi, chừ em hỏi anh ń
Trong trăm loại dầu có dầu chi là dầu không thắp
Trong trăm thứ bắp có bắp chi là bắp không rang
Trong ngàn thứ than có than chi là than không quạt
Trong hàng thứ bạc có bạc chi là loại bạc không đổi tiêu mà không tiêu ?

T
rai nam nhi bên chàng đối đặng
Dải lụa điều (đào) trao là em trao.
ḥ ơ ....

 
 


Nam ḥ:


Trong trăm loại dầu có nắng dăi mưa dầu là loại dầu không thắp
Trong trăm thứ bắp có lắp bắp mồm lắp bắp miệng là bắp không rang
Trong ngàn thứ than có than thở thở than là than không quạt
Trong hàng loại bạc có bạc t́nh bạc nghĩa là bạc không đổi tiêu mà không tiêu

rai nam nhi anh đă đối đặng
th́ dải lụa điều đâu có đâu lại có đâu

ḥ ơ.....

 

Nữ ḥ:


Chứ em hỏi anh ń
Chữ chi là chữ chôn xuống đất
Chữ chi là chữ cất lên cao
Chữ chi nặng mà không ai mang nỗi
Chữ chi mà gió thổi bay là không bay?
Trai nam nhi bên chàng đối đặng
Miếng trầu cay ḥ ơ ơ ơ..... là cho chàng Nam ḥ
:


Nam ḥ:


Hai chữ tiền tài anh bỏ xuống đất
Hai chữ nhân nghĩa anh cất trên cao
Hai chữ nhớ thương muốn tha không nỗi
Chữ t́nh chữ nghĩa gió thổi bay cũng không bay


Trai nam nhi anh đà đối đặng
Gái xuân thời em tính răng?
ḥ lờ ơ ơ... là ḥ là khoan

 

 

   III-          Cứ C̣n  Dân Tộc Tính  Việt

 

quocvan

Cứ  nói tiếng Việt,  cứ  nghe  cổ tích, tục ngữ , cadao, dân ca Việt  : đấy chính  là cửa sổ, mà giới trẻ và các em  thấy được vẻ đẹp trong căn nhà văn hóa Việt.  Vẻ đẹp đó  chính  là dân tộc tính  quê hương.  Dân tộc tính dần dần thấm nhuần vào trí óc các em để cuối cùng   các em biết  và   nhớ  nguồn gốc  của ḿnh  : ḿnh sinh  ra  bởi cha mẹ,  cha mẹ  sinh ra bởi ông bà, ông bà sinh ra bởi  tổ tiên., Tổ tiên cao nhất  chính là  Nguyên  Tổ  của người Việt.. Chúng ta  người Việt   đều  là con cháu của  Nguyên  Tổ.   V́ vậy  mọi người Việt  đều cùng máu mủ , được mang danh là đồng bào,.

 Dân tộc tính  đó được thể hiện  bằng tâm hồn biết kính trên nhường dưới, hiếu thảo với cha mẹ tổ tiên, yêu  thương và  đùm bọc  anh chị em, t́nh nghĩa thắm thiết vợ chồng, và ḷng tận trung với quê hương, tổ quốc..  

V́ có  dân tộc tính, mà người Việt có câu:

 

Công cha như núi Thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một ḷng thờ mẹ, kính cha

Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con

 
 

 

V́ có  dân tộc tính, mà   Cụ  Đồ Chiểu, trong cuốn  Lục Vân Tiên có câu:

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh là câu trau ḿnh

 

V́ có  dân tộc tính, mà Hội Nghị Diên Hồng

có câu.

Toàn dân nghe chăng

Sơn hà nguy biến

Hận thù đằng đằng

Biên thùy rung chuyển

V́ có  dân tộc tính, mà  tác giả   bài  Hịch B́nh Ngô Đại Cáo có câu.

 “Đem Đại nghĩa để thắng hung tàn.

Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo”

 

IV-   Kết luận

Cứ  Nói Tiếng Việt  và  Cứ Sử  Dụng Văn Học Truyền Khẩu là hai điều kiện  gắn bó keo sơn để  phát sinh Dân Tộc Tính quê hương.  Tổ tiên  Việt xa xưa  đă  cương quyết  nói Tiếng Việt và  vận dụng Văn Học Truyền Khẩu mà dành được nền độc lập  cho Giang Sơn Gấm Vóc, thoát đưọc sự đồng hóa  dân Hán. Chúng ta con cháu tổ tiên Lạc Long hăy Cứ  Nói Tiếng Việt  và Cứ Sử  Dụng Văn Học Truyền Khẩu nghĩa lă cố gắng  dùng  những truyện Cổ Tích để kể cho con cháu chúng ta ở Hải Ngoại, chúng ta cố gắng  dùng   những câu Tục Ngữ , Ca Dao và những bài Dân Ca  để kích động các em  thấm nhuần  Dân Tộc Tính quê hương Việt,.

 Nếu các quí vị đồng hương Việt nào muốn t́m hiểu thêm  về Văn  Học  Truyền Khẩu , để xử dụng  vào  sứ mệnh giúp ích cho giới trẻ và con em Việt , th́ xin   theo dơi  website   www. Vanhoaviet.info.    Website này chẳng những phong phú về chất liệu  văn học truyền khẩu mà c̣n  phong phú các tài liệu về văn hóa Việt nói chung