Phương cách bảo tồn DÂN TỘC TÍNH QUÊ HƯƠNG Biên soạn: Phạm xuân Khuyến
Lịch sữ quê hương Việt chứng tỏ rằng mặc dù sống dưới chế độ nô lệ Bắc thuộc trên ngàn năm, các sách vở Việt bị đốt hết, chữ viết Việt bị tiệu diệt, đơn từ giao dịch chỉ bằng chữ Hán, nhưng dân tộc tính Việt vẫn tồn tại, v́ người Việt cứ nói tiếng Việt, đồng thời cứ xử dụng văn học truyền khẩu liên lạc với nhau trong các sinh hoạt hàng ngày. Ngày nay người Việt đang sống ở hải ngoại, nơi mà ngôn ngữ hàng ngày của dân địa phương là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức th́ tất nhiên tiếng Việt dần dần sẽ bị quên lăng và dân tộc tính dần dần sẽ mất đi. Như vậy, môi trường sống hiện tại phần nào giống môi trường thời Bắc thuộc nếu đứng về mặt văn hóa mà nói. ![]() Để có thể sống ở hải ngoại, hưởng tiện nghi của đời sống văn minh với thế giới năm châu, mà vẫn c̣n DÂN TỘC TÍNH VIỆT, th́ người Việt phải tiếp tục cứ nói tiếng Việt và cứ xử dụng văn học truyền khẩu Việt khi có những sinh hoạt trong cộng đồng của ḿnh. I- Cứ Nói Tiếng Việt Việc Cứ nói tiếng Việt cần đến sự quan tâm của các bậc cha mẹ, của các bậc lănh đạo tinh thần tôn giáo, của Cộng đồng người Việt, và của các cơ quan truyền thông Việt như các đài Phát Thanh Việt và các đài Vô tuyến truyền h́nh Việt. |
||
1/ Các bậc Ông Bà Cha mẹ
Các con em Việt suốt ngày sống trong học đường, học văn hóaTây Phương, xử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp trong các sinh hoạt v.v.v . Giới trẻ đi làm công sở, hoặc xưởng thợ, thường ngày giao tiếp với xă hội bằng tiếng Anh tiếng Pháp. Chiều tối hay vào những ngày cuối tuần, những thành viên trong gia đ́nh mới có thời gian ngắn ngủi gặp gỡ nhau. Các chủ gia đ́nh hăy làm cách nào để cho mọi lứa tuổi trong gia đ́nh cứ nói tiếng Việt với nhau để hiểu nhau: cháu chắt nói chuyện với ông bà , con cái nói chuyện với cha mẹ.. Có như vậy, th́ tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ và ông bà, sự tôn kính tổ tiên, và t́nh mẫu tử t́nh phụ tử mới bền chặt và gia đ́nh mới đầm ấm. 2/ Các bậc lănh đạo tinh thần tôn giáo. Các quí vị lănh đạo tinh thần tôn giáo đều công nhận rằng giáo đường và chùa chiền là những nơi nuôi dưỡng tinh thần đạo đức của các tín đồ. Các quí vị đều biết rằng đạo nắm phần quan trọng trong đời sống đạo đức của mọi người. Có đạo đức, th́ các con em mới yêu mến cha mẹ ông bà, tôn kính tổ tiên, thương anh em chị em trong gia đ́nh. Bởi vậy, giáo đường và chùa chiền cần phải động viên cho có nhiều ngườiI đến. Xin quí vị kiên nhẫn và sáng kiến t́m những cách qui tụ các em lại để các em sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của quí vị. Khi hướng dẫn các em, các quí vị cứ nói tiếng Việt càng nhiều càng tốt,và kích động các em cứ nói tiếng Việt . 3/ Các vị lănh đạo Cộng Đồng Các quí vị có cơ hội qui tụ các bậc gia trưởng, các hội đoàn chung nhau xây dựng cộng đồng lớn mạnh trong tinh thần đồng hương, thương yêu, đoàn kết giúp đỡ nhau. Một khi cộng đồng lớn mạnh trong tinh thần đó, th́ giới trẻ và con em của quí vị sẽ thích tham gia, sinh hoạt và đương nhiên giới trẻ và các em được kích động cứ nói tiếng Việt với nhau một cách hồ hởi. Xin các quí vị hăy cố gắng nhắc nhở cho các bậc gia trưởng, cho các hội đoàn trưởng kích động mọi người Việt đạt tới tinh thần nêu trên. Xin các quí vị lănh đạo cộng đồng kiên tŕ tổ chức các lớp học truyền bá quốc ngữ , tổ chức các cuộc thi đua cứ nói tiếng Việt với nhau, và tổ chức các buổi thuyết tŕnh bằng tiếng Việt . 4/ Các đài truyền h́nh và các dài phát thanh Việt Các quí vị có cơ hội nắm ngành truyền thông Việt, đương nhiên là các quí vị có sứ mệnh truyền bá, bảo tŕ văn hóa Việt, củng cố dân tộc tính quê hương tại hải ngoại . Các quí vị có thể bàn đến chính trị. Làm chính trị là một phần nghĩa vũ yêu nước. Điều đó tốt. Các quí vị có thể quảng cáo nhiều dịch vụ để có thêm đồng tiền chi phí. Điều đó cũng tốt thôi. Nhưng các quí vị quên sứ mệnh của ngành truyền thông là phải phục vụ lợi ích văn hóa của cộng đồng Việt. Thực tế các quí vị dành trọn thời gian cho chính trị và quảng cáo mà bỏ rơi hoàn toàn lănh vực truyền bá văn hóa Việt cho giới trẻ Việt. Các quí vị quên rằng chính trị chỉ có giá trị nhất thời, c̣n vấn đề phát huy và bảo tŕ văn hóa nơi con em và giới trẻ hải ngoại mới c ó giá trị trường cửu. Vậy xin các quí vị hoạch định chương tŕnh văn hóa cho giới trẻ, đồng thời kích động giới trẻ cứ nói tiếng Việt, tạo cơ hôi cho các em phát biểu trên đài bằng tiếng Việt. Đấy là sứ mệnh của các vị lănh nhiệm vụ truyền thông . |
||
II- Cứ Sử Dụng Văn Học Truyền Khẩu Văn học truyền khẩu là điều kiện h́nh thành dân tộc tính mạnh nhất. Nếu được nghe và được cơ hội thực hành nội dung văn học này, trẻ em sẽ thấm nhuần dân tộc tính Việt. Bởi vậy, các bậc cha mẹ, các vị lănh đạo cộng đồng và tôn giáo, các vị nắm giữ ngành truyền thông nên quan tâm phát động phổ biến văn học truyền khẩu một cách quy mô và rộng răi. Thuộc nhóm Văn học truyền khẩu, chúng ta thường nghe nói tới: Truyện Cổ Tích (folk tales), Tục ngữ, Ca Dao, Dân Ca . Xin giới thiệu sơ qua: 1- TRUYỆN CỔ TÍCH Truyện Cổ Tích gồm: -Những chuyện ngụ ngôn để răn đời và những chuyện dựng lên trên truyền thuyết hay huyền thoại về thần linh, về vũ trụ, về biến cố lịch sử. Những chuyện Lạc Long quân trừ Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh, Thánh Tản viên (Sơn tinh) ngăn nước lụt... có thể xếp vào loại thần thoại về sự chinh phục thiên nhiên và kỳ tích của anh hùng. Những truyện "Cóc kiện trời", "Tại sao hổ có vằn", "Sự tích loài khỉ", "Sự tích con tu hú", "Sự tích con dă tràng"... có thể xếp vào loại cổ tích về loài vật. |
- có thể xếp vào loại cổ tích lịch sử. -Những truyện Trầu cau, Tấm Cám, Ba vị đầu rau, Túi ba gang (hai anh em và cây khế), Cây tre trăm đốt, Lưu B́nh Dương Lễ, Cái cân thủy ngân, Giết chó dạy chồng... có thể xếp vào loại truyện luân lư. -Những chuyện về sự dối trá của thằng Cuội, Trạng Quỳnh lỡm chúa Trịnh, Trạng Lợn gặp may, cũng như những giai thoại về Ba Giai, Tú Xuất... có thể xếp vào loại truyện hài hước.
Thêm vào đó, dân Việt c̣n có những truyện thần kỳ, thoát tục như Tú
Uyên gặp tiên,Từ Thức lên tiên, và một số truyện ái t́nh thuần túy
như Trưong Chi-Mỵ nương. Một đặc điểm đáng lưu ư của các truyện cổ tích là không có văn bản nhất định. Mỗi người kể lại đều có thể thêm bớt, thay đổi đôi chút cho hợp với khung cảnh và tŕnh độ, thành phần thính giả. |
||
2- TỤC NGỮ ![]() Tục= thói quen có đă lâu đời; ngữ= lời nói. Tục ngữ là những câu nói ngắn, gọn, giàu ư nghĩa, được dùng trong lời nói hàng ngày và lưu truyền từ đời nọ qua đời kia.
Nguồn gốc: a/- Phần lớn các tục ngữ nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Ban đầu, có khi chỉ là một câu nói thường nhưng nhờ có ư nghĩa xác đáng, lời lẽ cô đọng, dễ nhớ, được người khác thích thú, nhắc đi nhắc lại. Dần dần, câu nói được trau chuốt và phổ biến rộng hơn. b/-Có những câu vốn là thơ ca có tác giả nhưng nhờ ư đúng, lời hay, được nhiều người lưu tâm một cách đặc biệt rồi tách riêng để truyền tụng. Những câu như: Thương người như thể thương thân (trong Gia huấn ca ) Chữ "tài" liền với chữ "tai" một vần (trong Truyện Kiều ) c/-Có những câu tục ngữ được dịch từ ngạn ngữ nước ngoài như:
Ở hiền gặp lành (Tích
thiện phùng thiện - Trung hoa)
H́nh thức
Giơ cao, đánh sẽ.
Ở bầu th́ tṛn, ở
ống th́ dài
Mật ngọt chết ruồi Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
c/- Có vần, thường là vần lưng (yêu vận)
d/-Đôi khi có cả vần chân (cước vận)
Khôn
cho người rái,
Dở dở ương ương, |
||
Xin lưu ư 1/- Tục ngữ c̣n được gọi là ngạn ngữ nếu lời trong câu tục ngữ được coi là lời người xưa truyền lại. Ngạn ngữ thường là những câu không dài lắm nhưng ư nghĩa thật hàm súc, tất nhiên phải là "lời hay ư đẹp". Những câu sau đây th́ được coi là ngạn ngữ: - Điểu tận cung tàng, thố tử cẩu phanh (Hết chim th́ cung bị đem cất, thỏ chết th́ chó săn bị làm thịt; ư nói thói đời bội bạc) - Phú nhuận ốc, đức nhuận thân (Của cải làm cho nhà cửa thành đẹp đẽ; đức độ khiến con người trở nên tươi tắn). 2/-Thành ngữ là một loại tục ngữ đặc biệt, tự nó chưa có ư nghĩa đầy đủ. Thành ngữ chỉ là những cách nói đă định sẵn (set expressions) để mô tả sự vật chứ không biểu thị một ư phán đoán hay khuyên răn nào, chẳng hạn
Đàn gảy tai trâu,
Đáy bể ṃ kim,
Nói hươu nói vượn
Xếp
vào loại thành ngữ những Câu
ví : |
4/- Cách ngôn, Châm ngôn "CÁCH " là phương thức, "CHÂM" là lời răn bảo. Cách ngôn, Châm ngôn là những câu tục ngữ có ư khuyên dạy luân lư.Chúng là những lời nói mẫu mực, đáng noi theo. Đây là những câu Cách ngôn, Châm ngôn: - Tiên học lễ, hậu học văn; Đói cho sạch, rách cho thơm...
3- CA DAO & DÂN CA
(Ca: là bài hát thành chương khúc; Dao: là bài hát ngắn, không
thành chương khúc).
Ca
dao
là những câu hát theo giọng điệu tự nhiên lưu hành trong dân
gian, thường diễn tả ư nghĩ, t́nh cảm, nếp sinh hoạt của đại
chúng b́nh dân. Lấy rơm đun bếp |
||
2*- Lục bát chính thức:
Trúc xinh trúc mọc đầu đ́nh Con c̣ mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Ông ơi, ông vớt tôi vào! Tôi có ḷng nào, ông hăy xào măng. Có xào, th́ xào nước trong, Đừng xào nước đục đau ḷng c̣ con.
4*- Song thất lục bát chính thức:
Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc
Có hay chàng ở đâu đây
Trèo lên cây bưởi hái hoa Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em đă có chồng, anh tiếc lắm thay!
6*- Phối hợp nhiều thể khác nhau:
Dân
Ca
Cho cháu về quê b/- HÁT RU
Ru con , con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
hạn Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Xấu người đẹp nết c̣n hơn đẹp người Ví có thể là ḥ hát, đối đáp giữa nam và nữ, là lối hát huê t́nh cho nên có người mỉa mai hát ví: Ví ví von von Anh cho một cái cơng con về nhà. |
||
2/ Thể loại Dân Ca
Về lời ca
Về nghệ thuật kết cấu câu ca
Trong ba thể loại Dân Ca nêu trên thường có ba bước.
|
3/
Xử dụng một bài Dân Ca
|
||
rai nam nhi anh đă đối đặng
Nữ ḥ:
III- Cứ C̣n Dân Tộc Tính Việt
Cứ nói tiếng Việt, cứ nghe cổ tích, tục ngữ , cadao, dân ca Việt : đấy chính là cửa sổ, mà giới trẻ và các em thấy được vẻ đẹp trong căn nhà văn hóa Việt. Vẻ đẹp đó chính là dân tộc tính quê hương. Dân tộc tính dần dần thấm nhuần vào trí óc các em để cuối cùng các em biết và nhớ nguồn gốc của ḿnh : ḿnh sinh ra bởi cha mẹ, cha mẹ sinh ra bởi ông bà, ông bà sinh ra bởi tổ tiên., Tổ tiên cao nhất chính là Nguyên Tổ của người Việt.. Chúng ta người Việt đều là con cháu của Nguyên Tổ. V́ vậy mọi người Việt đều cùng máu mủ , được mang danh là đồng bào,. Dân tộc tính đó được thể hiện bằng : tâm hồn biết kính trên nhường dưới, hiếu thảo với cha mẹ tổ tiên, yêu thương và đùm bọc anh chị em, t́nh nghĩa thắm thiết vợ chồng, và ḷng tận trung với quê hương, tổ quốc.. V́ có dân tộc tính, mà người Việt có câu:
Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một ḷng thờ mẹ, kính cha Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con |
||
V́ có dân tộc tính, mà Cụ Đồ Chiểu, trong cuốn Lục Vân Tiên có câu: Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau ḿnh
V́ có dân tộc tính, mà Hội Nghị Diên Hồng có câu. Toàn dân nghe chăng Sơn hà nguy biến Hận thù đằng đằng Biên thùy rung chuyển V́ có dân tộc tính, mà tác giả bài Hịch B́nh Ngô Đại Cáo có câu. “Đem Đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo” IV- Kết luận Cứ Nói Tiếng Việt và Cứ Sử Dụng Văn Học Truyền Khẩu là hai điều kiện gắn bó keo sơn để phát sinh Dân Tộc Tính quê hương. Tổ tiên Việt xa xưa đă cương quyết nói Tiếng Việt và vận dụng Văn Học Truyền Khẩu mà dành được nền độc lập cho Giang Sơn Gấm Vóc, thoát đưọc sự đồng hóa dân Hán. Chúng ta con cháu tổ tiên Lạc Long hăy Cứ Nói Tiếng Việt và Cứ Sử Dụng Văn Học Truyền Khẩu nghĩa lă cố gắng dùng những truyện Cổ Tích để kể cho con cháu chúng ta ở Hải Ngoại, chúng ta cố gắng dùng những câu Tục Ngữ , Ca Dao và những bài Dân Ca để kích động các em thấm nhuần Dân Tộc Tính quê hương Việt,. Nếu các quí vị đồng hương Việt nào muốn t́m hiểu thêm về Văn Học Truyền Khẩu , để xử dụng vào sứ mệnh giúp ích cho giới trẻ và con em Việt , th́ xin theo dơi website www. Vanhoaviet.info. Website này chẳng những phong phú về chất liệu văn học truyền khẩu mà c̣n phong phú các tài liệu về văn hóa Việt nói chung
|