Dân Nẫu

Người xứ B́nh Định - Phú Yên: tại sao được gọi là "dân Nẫu"

Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú yên bây giờ). Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, h́nh thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa. Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên. Do đặc điểm của vùng đất mới c̣n hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu, Man. 

Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lư một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu. 

Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm... 

Do sự phát triển của xă hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại kư lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc”, “Nậu” bị xóa bỏ. 

Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. 
 
   

Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ: 
Ví dụ: 

-Mất chồng như nậu mất trâu 
Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm. 
- Tiếc công anh đào ao thả cá 
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu. 
- Ai về nhắn với nậu nguồn 
Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên. 

Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên-B́nh Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng”, “bả”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh”, “chỉ”. 

Và thế là “Nậu” được thay bằng “Nẩu”. 

Nẫu đă đi vào ca dao B́nh Định, Phú Yên khá mượt mà, chân chất: 

Ai nề sông núi Phú Yên 
Cho nẫu nhắn gở nỗi niềm nhớ quê 
Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam) với “mô, tề, răng, rứa, chừ”, vượt qua đèo B́nh Đê (ranh giới B́nh Định - Quảng Ngăi) được đổi thành “đâu, kia, sao, vậy, giờ”. 

Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (B́nh Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ṛi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngă. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (B́nh Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên), các âm dấu ngă đều phát âm thành dấu hỏi. 

Riêng đồng bằng Tuy Ḥa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngă. Bởi vậy, “Nẩu” hay được phát âm là “Nẫu”. 

Đồng bằng Tuy Ḥa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “Nẩu” theo phát âm quen miệng thành chữ “Nẫu”. 

Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng B́nh Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, v́ là "đại từ nhân xưng" nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều. Ví dụ thay v́ hỏi „Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy? „ th́ người dân B́nh Định và Phú Yên hỏi là „Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy?“ hay „Cái nhà này là của họ“ th́ dân Nẫu sẽ nói là „Cái nhà nhà này là của nẫu“. 

Chính v́ vậy mà khi ḥa cùng tất cả tiếng nói của mọi miền đất nước th́ tiếng nẫu sẽ không lạc vào đâu được, thậm chí c̣n dùng những từ hoàn toàn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay v́ nói „Vào tận trong đó“ th́ nói là „Dô tuốt trỏng“ hay hỏi "vậy hả?" th́ hỏi là „dẫy na?“, "dẫy ngheng" (vậy nghen hay thế nhé), "dẫy á" (vậy đó), "chu cha wơi" (trời đất ơi) v.v... 

 
   


========== Thêm môt version ==================

....Người Việt ḿnh từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đă nổi tiếng là “nhà quê”, cho dù có ở thành thị th́ vẫn là “dân nhà quê” so với các nước khác. Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam ḿnh, xứ nào là “nhà quê” nhứt? Đó chính là “xứ Nẫu”. Tôi đi khắp Việt Nam, ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi…
V́ sao "quê", v́ ngay cái chữ “Nẫu” nghe nó đă quê rồi. Nó khởi thủy là chữ “nậu”, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như là nguyên thủy, ngày nay không c̣n ai dùng. Từ “nậu” để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: "Nậu nguồn" chỉ nhóm người trên rừng, "Nậu nại" chỉ nhóm người làm muối, "Nậu rổi" chỉ nhóm người bán cá, "Nậu rớ" chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, "Nậu cấy" chỉ nhóm người đi cấy mướn, "Nậu vựa" chỉ nhóm người làm mắm... măi sau, bằng nguyên lư tăng âm đặc trưng của dân Việt ḿnh: “ông + ấy = ổng”, “chị + ấy = chỉ”, th́ cái “nậu + ấy= Nẫu”.
Xứ Nẫu bắt đầu từ B́nh Định, Phú Yên và một phần của Khánh Ḥa. Cũng như các vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết các âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn…khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu tạo thanh quản của dân xứ Nẫu đă khác đi so với người xứ khác. Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng tŕnh trịch, nhưng mà nặng nhất là cái t́nh:
Thương chi cho uổng công t́nh
Nẫu dźa xứ nẫu, bỏ ḿnh bơ vơ
Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều ǵ không đúng, ông nội tôi thường nói: “đửng làm dẫy, nẫu cừ” (đừng làm vậy, người ta cười), nhưng cũng có khi ông nội cho tôi thoải mái, muốn làm ǵ th́ làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút ph́ phà như người lớn, v́: “nẫu cừ th́ kệ nẫu cừ, nẫu cừ lạnh bụng, hở mười cái răng”. Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, t́nh cảm nhưng hơi thô kệch… 
Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của ḿnh. Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lăm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng răi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy), Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ ǵ về ḿnh, tốt xấu ǵ cũng mặc, “kệ nẫu”. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt tḥi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn..................

Lang thang, tôi kiếm t́nh người,
Mẹ già nghe nói, mỉm cười đau thương.

                                     NGUYỄN VĂN THUẬN