Giáo Dục Học Đường thời phong kiến Đào Tạo Con Người: Nền Giáo Dục Khổng Mạnh
Nền giáo dục thời phong kiến trên đất Việt đều theo một phương châm tiên học lễ, hậu học văn, lấy lễ phép , nhân nghĩa lễ trí tín mà cư xử với nhau. Nhà trường gắn bó với gia đ́nh, và xă hội rất khăng khít. Cha mẹ sinh ra thân xác, nuôi dưng thân xác cho lớn lên c̣n nhà trường truyền thụ kiến thức để cho mỗi người biết hành xử trong cuộc sống hàng ngày giữa mọi người trong xă hội. Chính v́ đó mà ông thầy,( thời đó gọi là ông đồ ) được nể v́ trong nền văn hóa Việt.
Dưới các chính thể trải qua các thời đại, dân tộc Việt đều tôn sư trọng đạo. Dưới thời phong kiến lấy giáo dục Khổng Mạnh làm căn bản, các học tṛ lớn tuổi thường quy tụ các bạn đồng môn lại với nhau thành một đoàn thể . Họ góp tiền, mua ruộng, mua trâu rồi phân công cày cấy , đến vụ mùa th́ chung nhau gặt hái rồi gánh lúa đến nhà thầy để gia đ́nh thầy chi dùng . Khi thầy qua đời, th́ các tṛ dùng ruộng đó bán đi mà làm ma chay cho thầy,chẳng những lo tang chế cho thầy mà c̣n lo tang cho vợ thầy nữa . Các tṛ cũng cảm thấy có bổn phận tết thầy, giỗ thầy và tế tự thầy sau khi thầy mất . Không khác ǵ cư tang cha mẹ, các tṛ cũng cư tang thầy, chỉ khác một điều là cư tang trong ḷng ( gọi là tâm tang) không mang tang phục. Người ta có kể truyện về quan Thương Thư Nguyễn Khác Niên thời vua Bảo Đại như sau: Cụ Thượng là người Sơn Ḥa , Hương Sơn, Hà Tĩnh học tṛ của cụ đồ Nguyễn Duy Dự người Sơn Tiến. Đến kỳ thi Hương, cả hai thầy tṛ đều đi thi hương. Thầy chỉ đậu Tú Tài, c̣n tṛ thi đậu cử nhân , được vào Huế thi đậu luôn Tiến sĩ cấp bậc Hoàng Giáp khoa Đinh Mùi năm 1907 thăng quan tới chức Thượng Thư bộ Cải Lương . Lúc đang làm Thượng thư trong triều, nghe tin vợ của thầy cũ qua đời, cụ Thượng Niên vội về Hà Tĩnh để phúng viếng người chết . Nhà bà Tú ở trên đồi, cụ Thượng đi chân đất lên tới tận nhà . Khi lên tới nơi , cụ Thượng vái chào con trai cụ Tú rất cung kính và coi là thế huynh mặc dầu người đó chỉ là dân thường và it tuổi hơn . |
||
Dấu ấn Giáo Dục Khổng Mạnh: Quốc Tử Giám Quốc Tử Giám : Đào Tạo giới nhân tài Việt
Để quí vị độc giả biết sơ qua Quốc Tử Giám, xin mời quí vị đọc một vài đoạn trích bài tường thuật chuyến viếng thăm Quốc Tử Giám của Nhiếp Ảnh Gia Hương Kiều Loan.
Đuợc sanh ra ở Hà Nội, nhưng tôi lại lớn lên ở miền Nam, những kỷ niệm về nơi thơ ấu c̣n sót lại quá mơ hồ trong tiềm thức, những khi đọc sách nói về danh lam thắng cảnh của quê cũ, tôi rất muốn có ngày đuợc tận mắt đến coi những nơi di tích sử. Nhất là sau này khi phải xa đất nuớc thân yêu cả mấy chục năm, ḷng hoài hương càng mạnh mẽ hơn, niềm khao khát đuợc nh́n lại những nơi của tuổi thơ như một uớc vọng khó nén đuợc. Quốc Tử Giám là một nơi nằm trong danh sách mà nhất định với giá nào tôi cũng phải đi văn cảnh cho đuợc.
Quốc Tử Giám
Tôi bèn hỏi bố về nơi này, v́ bố đă ở Hà Nội từ nhỏ cho đến ngày
di cư năm 1954. Suốt cả buổi tối, tôi đuợc bố cho
biết về Quốc Tử Giám và tôi đă ghi lại được như sau: Trong Việt sử, th́ từ đời nhà Lư đă có thi nho sĩ, nhưng chỉ thi Tam Trường (Cử nhân) mà thôi. Đến đời nhà Trần, năm Nhâm th́n (1232), dưới đời Trần Thái Tông, mới mở khoa thi Thái học sinh (Tiến sĩ). Đến khoa thi năm Đinh vị (1247) đặt ra tam khôi, là ba tước vị đỗ đầu là trạng nguyên, bảng nhăn và thám hoa. Khoa này có ông Lê Văn Hưu, đỗ bảng nhăn, sau này nổi tiếng là vị sử gia đầu tiên làm ra bộ Đại Việt sử gồm có 30 quyển, chép từ Triệu Vơ Vương đến Lư Chiêu Hoàng. Năm Qúi sửu (1253), cuối đời Trần Thái Tông th́ lập Quốc Học Viện để giảng tứ thư và ngũ kinh. Sang đời nhà Lê, ông Lê Lợi sau khi đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cơi, lên ngôi tôn là Vua Lê Thái Tổ (1428-1433) đă sửa sang lại mọi việc học hành, đặt Quốc Tử Giám ở kinh đô để cho con cháu các quan và những người thường dân lỗi lạc vào học tập.Sang đời Hậu Lê th́ sự học hành cũng vẫn theo như đời trước, lấy Nho học làm trọng, ở Quốc Tử Giám th́ đặt thêm các Học quan. Theo quy chế th́ vị Hiệu trưởng của nhà trường có tước vị là Quốc tử Tế tửu (Vị chủ tế được dâng rượu) và vị Hiệu phó có tước vị là Quốc tử Tư nghiệp. Hai vị giảng quan, mỗi tháng một lần giảng kinh sách cho sĩ tử, gọi là tiểu tập, và ba tháng một lần có đại tập.Tới thời nhà Nguyễn, Vua Gia Long lên ngôi năm Nhâm tuất (1802) sau khi đă thống nhất đất nước, nhờ vơ công dựng nên cơ nghiệp, nên quan đầu triều ở kinh đô Thuận hoá là Ngũ quân Đô thống và các quan Tổng trấn Nam và Bắc đều là vơ quan. Vua Thế tổ Cao hoàng nhà Nguyễn (1802-1819) cũng biết rằng sự trị nước cần có văn quan nên rất lưu ư đến việc học hành và thi cử. Ngài đặt nhà Văn miếu ở các doanh và các trấn, thờ Đức Khổng tử, để tỏ ḷng trọng Nho học. Ở Kinh đô ngài thiết lập Quốc Tử Giám để dậy con các quan và các sĩ tử. Trường Đại học quốc gia như thế chính thức rời từ Thăng Long vào Thuận Hóa Cuối đời nhà Nguyễn, dưới sự bảo hộ cùa Pháp, Nho học trờ nên lỗi thời, Quốc Tử Giám không c̣n tồn tại. Tới vua Thành Thái, khi lên ngôi năm 1888, nhà vua tuy mới lên 10 tuổi, nhưng đă sớm nhận thấy sự áp bức của thực dân Pháp đối với Nam triều nên vẫn ủ ấp hoài băo nâng cao dân trí canh tân đất nước. Tới năm 1896, khi đủ 18 tuổi được tự quyết định việc triều chính, vua Thành Thái mời ông Ngô Đ́nh Khả là một nhân sĩ trí thức đă được hấp thụ xâu sắc nền Nho học Khổng Mạnh, lại từng được du học ở Tổng Chủng Viện của ḍng Thừa Sai Paris ở Mă Lai, để giao phó trách nhiệm tổ chức và điều khiển một cơ sở giáo dục cấp quốc gia . Cơ sở này được gọi là Trường Quốc Học và là hậu thân của Quốc Tử Giám. Ông Ngô Đ́nh Khả, trong chức vụ Chưởng Giáo (Hiệu trưởng) đă thuyết phục được chính quyền bảo hộ cho trường được giảng dậy cà hai nền văn hoá Đông và Tây với ba ngôn ngữ: Quốc văn, Hán văn và Pháp văn. Suốt gần 80 năm tồn tại (1896-1975) trường Quốc Học ở Huế đă cung cấp cho đất nước rất nhiêu nhân tài ở mọi ngành." Chúng tôi mời bố một chuyến ra Bắc thăm lại những ngôi nhà ngày xưa mà bố đă một đời tạo dựng. Nhưng bố từ chối v́ tuổi đă cao đi lại sẽ bất tiện. Viếng Thăm Quốc Tử Giám.
Có lẽ cái êm ả, tĩnh lặng, thêm vào cây cối xanh mát, thảm cỏ non, rồi lớp cỏ tóc tiên đuợc trồng bọc riềm cho từng khu vực của những thảm cỏ, trông thật đẹp mắt và duyên dáng, khiến tôi thấy yêu thích nơi này một cách lạ lùng. Mọi góc cạnh đều tươm tất sạch sẽ. Thật là điều đáng khen cho những người có phận sự giữ khu vườn tược của Văn Miếu. Cũng vẫn lối đi bằng gạch đỏ ấy, dẫn đến Khuê Các Văn, cái tên nghe hay như truyện Tàu. ( Lối đi chính trong Quốc Tử Giám photo:HKL...>) ![]() Khuê Các Văn Nơi này có hai cổng nhỏ phụ là Súc Văn và Bí Văn. Khuê Các Văn là một lầu vuông 8 mái, đuợc xây dựng vào năm 1805, đời vua Gia Long nhà Nguyễn. Gác xây trên nền vuông cao, lát gạch Bát Tràng, kiểu kiến trúc của gác khá độc đáo, gác nằm trên bốn trụ gạch, bốn bề trống không, tầng trên là kiến trúc gỗ, 2 tầng, máí đuợc lợp bằng ngói ống, bốn góc bằng đất nung. Sàn gỗ chừa một khoảng để bắc thang lên gác. Bốn cạnh có riềm gỗ được chạm trổ tinh vi, xung quanh lại có lan can, 4 cửa sổ h́nh tṛn đuợc trổ ở mỗi mặt gác. Tại khu Khuê Các Văn này có hai hồ lớn h́nh chữ nhật, nhưng bốn góc lại ṿng. Hồ có tuờng gạch bao quanh, cao đến ngực nguời b́nh thuờng.
Trong hồ thả hoa sen nhưng mùa hè hoa không nhiều chỉ lác đác đuợc ít đoá sen trắng, c̣n lại là lá.Vào muà nắng nên nuớc trong hồ cũng cạn khá thấp, nuớc xanh đục mầu rêu. Tôi cứ ao uớc phải chi nuớc trong hồ cao hơn và hồ có nhiều hoa sen trắng hay sen hồng th́ đẹp biết mấy. Tuy vậy phong cảnh cũng nên thơ lắm. Tôi ṿi anh chàng chụp h́nh cho ḿnh, v́ anh chàng có khiếu về nhiếp ảnh, chụp bảo đảm sẽ đẹp. Anh chàng nhăn nhăn nhó nhó, chỉ chụp cho vài kiểu rồi không chịu chụp nữa. Giá là thuở mới quen nhau, chắc tôi đă có nhiều h́nh chụp đẹp mà không cần phải năn nỉ! Nghĩ mà ức ḷng! Đến nơi đẹp thế này mà không có h́nh lưu niệm, thật uổng! Nhưng với cá tính nhà binh cũ, lại chẳng văn nghệ văn gừng, nên anh chàng không huởng ứng việc tôi thích chụp nhiều h́nh một tư nào.
Cuối khu này có hai cổng nhỏ dẫn đến Đại Thành Môn, thoáng nh́n cái cổng có vẻ u buồn, nhưng vừa qua khỏi cái cổng nhỏ đó, người ta lại quá ngạc nhiên v́ bước vào một vùng rộng và trong sáng. Tôi có cảm tưởng như cả một bầu trời mới mở rộng, nơi đây có một hồ nước lớn h́nh vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh ( giếng trời trong sáng) có tuờng cao bao quanh như hai hồ phiá bên kia lầu Khuê Các Văn. < ....( Cổng qua khu Văn Bia, PT:HKL )
Theo quan niệm người xưa, giếng h́nh vuông tuợng trưng cho mặt đất, cửa sổ của Khuê Các Văn h́nh tṛn, tượng trưng cho bầu trời, có ư nói nơi đây là nơi tập trung mọi tinh hoa của trời đất, với ư tưởng đề cao trung tâm giáo dục văn hóa Nho học Việt Nam. Hai bên hồ là dẫy bia đá tiến sĩ, đó những di vật quư giá nhất của khu di tích lịch sử. Giếng Thiên Quang, Photo:HKL)............>
Hiện nay c̣n 82 tấm bia, phân chia đều thành hai bên, mỗi bên có 41 bia cân xứng nhau qua giếng Thiên Quang. Ở hai khu vục bia này đều có những con rùa to lớn bằng đá nằm câm nín chịu đựng sức nặng của những tấm bia đá đè đứng trên lưng chúng. Con nào con nấy nằm im ĺm giống nhau, bia nào bia nấy dựng thẳng đứng, cao giống nhau. Đó là những tấm bia đá khắc tên những người đỗ tiến sĩ. Anh Tuyên cho biết truớc đây những dăy bia đá và ruà này phải đội suơng đội nắng, và gió qua bao thế kỷ. Cho măi năm 1993 mới đuợc dựng mái để che. Qũy do tổ chức doanh nghiệp Mỹ đài thọ. Hèn ǵ bây giờ trông dăy nhà bia đẹp và trang nghiêm hẳn ra. Tôi cũng hỏi anh về những chuyện thi cử của các triều đại truớc mà tôi đọc trong sách giáo khoa thuở c̣n đi học, nay tha huơng bao năm đă quên dần. Anh cho biết là ở nước ta, từ thế kỷ 11, triều đại nhà Lư đă bắt đầu dùng chế độ khoa cử rồi tuyển dụng quan lại trong những người có bằng cấp. Dưới triều nhà Nguyễn, vào thế kỷ 19, thi cử có ba kỳ, ở ba cấp bậc là những kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đ́nh. Thi Hương cứ ba năm tổ chức một lần, ở nhiều nơi. Thời đó ta có các trường thi, từ Nam ra Bắc là ở An Giang, Gia Định, B́nh Định, Thừa Thiên, Nghệ An, Thanh Hoá, Nam Định và Hà Nội. Thi Hương gồm bốn kỳ gọi là nhất trường, nhị trường, tam trường và tứ trường; thí sinh trúng kỳ trước mới được vào kỳ sau. Trúng bốn kỳ là cử nhân, trúng ba kỳ là tú tài. Số người thi ở mỗi nơi kể có hàng ngàn, lúc lấy cử nhân c̣n vào khoảng 30 người và tú tài chừng 75 ngựi. Qua năm sau, có khoa thi Hội tại bộ Lễ ở kinh đô để những người có học vị cử nhân dự thí. Ai trúng cách th́ được vào sân đ́nh nhà vua thi một kỳ cuối cùng, gọi là thi Đ́nh. Những người thi Đ́nh trúng cách được học vị tiến sĩ, nhưng cũng có thứ bực pân biệt được xếp hạng vào ba cái bảng gọi là giáp. V́ vậy ta thường dùng từ khoa bảng hay khoa giáp để chỉ những người có bằng cấp. Ba người giỏi nhất đưọc ghi tên trên bảng đàu gọi là đệ nhất giáp, và theo thứ tự đuợc đề tên trước hay tên sau mà gọi là đệ nhất giáp, đêï nhất danh, đêï nhị danh và đệ tam danh. Người đứng đầu gọi là Trạng Nguyên, người thứ hai là Bảng nhăn và người thứ ba là Thám Hoa. Những người được ghi tên vào bảng thứ hai, gọi là đệ nhị giáp, là các ông tiến sĩ xuất thân. Những người xuất sắc khác cũng trúng cách được ghi vào bảng thứ ba, gọi là đệ tam giáp. Học vị của họ là đồng tiến sĩ xuất thân. Trung b́nh th́ số lượng tiến sĩ mỗi kỳ vào khoảng hơn hai mươi người. Mỗi kỳ thi đ́nh c̣n có vài ngựi, học lực cũng xứng đáng là tiến sĩ nhưng văn bài đôi khi có điểm thiếu sót, được ghi tên trên một bảng phụ và được nhận học vị phó bàng. Nghe anh nói đến Trạng nguyên là tôi lại nhớ tới cảnh ngày xưa tả trong sách, mỗi lần có những vị tân khoa là được vua cho phép cưỡi ngựa đi dưới lầu hoa để công chúa tuyển phu gieo trái cầu lựa chọn pḥ mă. Tôi nghĩ là cảnh đó chỉ có ở trong tưởng tượng nhưng khi hỏi anh Tuyên th́ anh chỉ cười. Thấy trên tuờng ở một khu khác trong Văn Miếu có treo hai khung kính lớn, bên trong là bản nói về lai lịch Văn Miếu, đuợc viết bằng chữ lối chữ in, dài quá, Tôi không đủ kiên nhẫn đứng đọc hết đuợc với khí hậu nóng và oi giết người này. Tôi bén "nháy" hai tấm bảng đó luôn, dự tính sau này khi nào rảnh sẽ đọc. Bản nói về lai lịch Văn Miếu: "Năm Canh Tuất (1010) vua Lư Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra thànhThăng Long (Hà Nội ngày nay). Năm 1070, đời vua Lư Thánh Tông, cho lập Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và bốn môn đệ xuất sắc nhất của Khổng Tử là: Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử. Vẽ h́nh 72 người hiền, và bốn mùa cúng tế.Hoàng Thái Tử đến học. Năm 1076, đời vua Lư Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám để con cháu quan lại biết chữ vào học. Việc thành lập Văn Miếu Quốc Gia Giám tôn kính các bậc Tiên Thánh, Tiên Hiền và đào tạo nhân tài cho đất nuớc đă chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của tinh thần tự lập, tự cường, xây dựng quốc gia độc lập. Các vua Trần đă cho mở mang thêm vào những năm 1236, 1243,1253 và gọi là Quốc Học Viện. Năm 1428 vua Lê Thái Tổ mở mang thêm Quốc Tử Giám, chọn con cháu các quan và thường dân tuấn tú sung làm giám sinh Quốc Tử Giám. Năm 1444 nâng lên tŕnh độ đại học gọi là Thái Học Viện. Năm 1453, Vua Lê Thánh Tông cho trùng tu lớn: Từ cửa chánh phía nam đi vào, hai bên dựng bia tiến sĩ : Qua cửa Đại Thành và sân Đại Băi vạ̀ điện Đại Thánh thờ Khổng Tử. Hai bên tả hữu thờ 72 người hiền. Nơi đây c̣n có điện Canh Phục và kho giữ đồ tế khí. Phía sau điện Đại Thành là Quốc Tử Giám có giảng đuờng , kho chứa văn gỗ đă khắc thành sách và sáu dăy nhà, có 150 pḥng cho các giám sinh ở và học. Đầu thế kỷ XIX nhà Nguyễn chuyển kinh đô vào Huế. Văn Miếu Hà Nội đuợc trùng tu lớn. Xây tường bao quanh, dựng Khuê Văn Các và điện Khải Thành thờ cha mẹ Khổng Tử trên nền Quốc Tử Giám cũ. Năm 1947, điện Khải Thành bị chiến tranh tàn phá. Nay đang có dự án tồn tạo để tôn vinh văn hóa dân tộc.Ngày 25-1-1965 Ủy ban nhân dân Thành Phố Hà Nội quyết nghị thành lập: Trung Tâm Hoạt Văn Hoá, Khoa Học Văn Miếu. Quốc Tử Giám có chức năng: Quản Lư tổ chức hoạt động văn hoá khoa học, nghệ thuật, huớng dẫn du khách tham quan, lập quy hoạch tồn tạo di tích. Từ 1991-1995 một số công tŕnh của Văn Miếu Quốc Tử Giám đă đuợc tu sửa. Trong đó có 8 nhà che bia. Dự định đến năm 2000 việc tồn tạo sẽ hoàn thành. Văn Miếu Quốc Tử Giám là biểu tượng của nền Văn Hoá Giáo Dục Việt Nam, thời phong kiến, khơi dậy tinh thần dân tộc truyền thống yêu nước, hiếu học và trọng đạo lư của dân tộc. Đó là bản văn trong một khung kính mà tôi đọc đuợc, c̣n bản văn trong khung kính thứ hai th́ đành chịu, dù đă dùng đủ mọi cách! (Nếu muốn thưởng thức tài nhếp ảnh của Nhếp ảnh Gia Hương Kiều Loan, th́ xin quí vi. click videothonhac rồi click Hương Kieu Loan |
||
Lịch sử Khoa Cử thời Phong Kiến nước Việt (tài liệu rút ra từ báo Dân Quyền tháng 10/2010)
Trong suốt 845 năm khoa cử lịch triều, kể từ khi khoa thi đầu tiên Minh Kinh Bác Học mở ra năm Ất Măo 1075, dưới triều vua Lư Nhân Tông tới khoa thi cuối cùng năm Mậu Ngọ 1918 ở Trung Kỳ, các thí sinh trúng tuyển được mang Danh hiệu và học vị sau đây. Danh hiệu: Đỗ đầu một kỳ thi th́ được mang danh hiệu nguyên : Đỗ đầu kỳ thi Hương là Giải Nguyên. Đỗ đầu kỳ thị Hội là Hội Nguyên. Đỗ đầu kỳ thi Đ́nh là Đ́nh Nguyên Học vị: Học vị là đẳng cấp cao thấp của văn bằng. Đối với kỳ thi Hương th́ đẳng cấp thấp nhất của văn bằng là Tú Tài, đẳng cấp cao hơn là Cử nhân . Dưới thời Lê Trung Hưng th́ đẳng cấp thấp nhất là Sinh Đồ và đẳng cấp cao hơn là Hương Cống. Ai đỗ Cử Nhân mới được phép thi Hội, thi Đ́nh. Những thí sinh trúng tuyển kỳ thi Hội và thi Đ́nh th́ được học vị Tiến sĩ. Tiến sĩ lại chia ra nhiều cấp khác nhau với 3 giáp. Tiến sĩ đệ nhất giáp chỉ lấy có 3 người cao nhất là Trạng nguyên, thứ nh́ là Bảng nhăn, thứ ba làThám hoa (Thời Nguyễn: Trạng Nguyên bỏ)) Tiến sĩ đệ nhị giáp có học vị là Hoàng Giáp Tiến sĩ đệ tam giáp có học vị Đồng Tiến sĩ Xuất thân ( Tiến sĩ thường) Trong lịch sử Khoa Cử Lịch Triều Việt Nam chỉ có 5 người được vinh dự mang danh hiệu Tam Nguyên tức đỗ đầu cả 3 kỳ thi Hương, Hội và Đ́nh . Đó là các vị Đào Sự Tích, Lê Quư Đôn, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến và Vũ Phạm Hàm. Xin nói sơ qua về 5 vị này: 1-Tam nguyên Trạng nguyên Đào Sư Tích người làng Song Khê, huyện An Dũng, tỉnh Bắc Ninh) . Năm 1374 vua trần Duệ Tông mở khoa thi Tiến sĩ, ( kỳ thi tại hành cung Thiên trường thuộc phủ Xuân trường tỉnh Nam Định ). Đào Sư Tích đỗ đầu từ thi Hương đến thi Đ́nh.Học vị Tiến sĩ bắt đầu có từ năm này và Tam nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam 2-Tam nguyên Duyên Hà Lê Quư Đôn (1726 -1784 ) người làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà , tỉnh Thái B́nh. Năm 18 tuổi đậu Giải Nguyên . Năm 1752 đời vua Lê Hiển Tôn đỗ Hội nguyên và Đ́nh nguyên lúc 27 tuổi. Năm 1760 đi sứ sang Tầu, ông được khâm phục v́ sự ứng đối và văn tài của ông. Từ 1769 Lê quư Đôn có công tiễu trừ các đồ đảng của lê duy Mật ở Thanh Hóa và Nghệ An. Lê Quư Đôn là một nhà thông thái và bác học về thời Lê mạt. Với kiến văn quảng bác ông trứ thuật và biên tập rất nhiều sách về lịch sử , địa dư và văn hóa . Thi văn bằng chữ nôm chỉ c̣n truyền lại một câu đối, một bài thơ, một bài knh nghĩa và một bài văn sách . Các tác phẩm của ông 80 quyển hầu hết viết bằng chữ Hán: - các tác phẩm bàn về Tứ Thư và ngũ Kinh của Nho Giáo - các tác phẩm khảo cứu về cổ thư - các tác phẩm sưu tập về thi văn - các tác phẩm khảo cứu về sử địa: -Lê triều thông sử -Phủ biên Tập Lục chính trị cơi biên thuỳ -Bắc sử Thông Lục ( chép các việc đi sứ sang Tầu -Kiến văn Tiểu Lục: những điều thấy nghe - Các thơ văn do ông sáng tác : -Quế đường thi tập - Liên Châu thi t ập -Quế đường văn tập
Bài thơ "Rắn đầu biếng học" của Lê Quư Đồn lúc 7, 8 tuổi hồi ông quan thượng bạn của bố đến nhà thăm bố : Chẳng phải liu điu cũng giống nhà Rắn đầu biếng học chẳng ai tha? Thẹn đèn hổ lửa đau ḷng mẹ Nay thét mai gầm rát cổ cha Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối Lằn lưng cam chịu tiếng roi tra Từ nay Châu Lỗ chăm nghề học Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia
3- Tam Nguyên Vị Xuyên Trần Bích San (1838-1877) có tên gọi Tam nguyên Bến Nứa, người làng Vị Xuyên,huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định. Năm 1864 đỗ Giải nguyên, trường Nam Định lúc mới 26 tuổi. Năm sau 1865 ông vào kinh thi đỗ luôn Hội Nguyên và Đ́nh Nguyên Hoàng Giáp. Năm 1870 Trần Bích San được cử đi sứ Trung Hoa để thương thuyết về việc buôn bán với Hương Cảng. Vài tháng sau ông được bổ đi làm Tuần phủ Hà Nội. Ở chức vụ này ông có dịp giao thiệp thường xuyên với người Pháp. Phó Thuỷ sư Đô Đốc Dupre' thăm xă giao ông. Chủ khách vừa an tọa th́ con chó của Dupré nhảy lên nằm trên ghế đối diện. Ông cho đó là dụng ư của Dupre' muốn bỉ mặt ḿnh nên nổi giận phủi áo đứng lên không tiếp Dupre' nữa và sai lính đánh chết con chó. Năm 1877 dịp có cuộc đấu xảo ở Balê, vua Tự Đức cử một phái đoàn ngoại giao sang Pháp để tỏ t́nh hữu nghị. Dupre' yêu cầu Nam triều đề cử Trần Bích San làm chánh sứ. Khi biết hành tŕnh phải ghé Sàig̣n nhờ phương tiện đường thủy của Dupre', th́ ông e rằng Dupre' sẽ trả thù làm nhục lây đến quốc thể mà lệnh vua không thể trái, ông nuốt giấy bản tự vẫn. Ông để lại tập tam nguyên Vị Xuyên Thi Tập gồm hơn 100 bài thơ bằng hán Văn Tư cách của Tam Nguyên Trần Bích San: Ông chí hiếu, khi làm quanTri phủ An Nhơn ở miền Trung thấy địa phương có lụa nổi tiếng, ông kiếm một tấm rồi sai người đưa về Bắc biếu mẹ. Mẹ ông chiêu đăi người mang lụa chu tất rồi gửi laị cho ông một gói đồ.Giở gói ra, ông thấy c̣n nguyên vẹn tấm lụa và một cái roi mây. Ong hiểu ư thân mẫu mắng ḿnh làm công sai mà dĩ công vi tư. Ông nằm xuống tự đánh ḿnh đủ ba roi rồi hướng về quê Vị Xuyên lạy tạ mẹ (Theo di cáo của Hoàng Đạo Thuư 1900-1994 chưa xuất bản ). 4-Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835-1910) người làng Yên Đổ (Vị Hạ) , huyện B́nh Lục , tỉnh Hà nam. Năm 1864 ông đỗ Giải Nguyên trường Hà Nội. Năm 1871 ông đỗ Hội Nguyên và Đ́nh Nguyên Hoàng Giáp. Ông được bổ làm Bố Chánh Quảng nam và Quảng ngăi. Chính sự cần mẫn, thanh liêm, tài thao lược trong nhiều vụ tiêũ trừ giặc giă. Năm 1882, Pháp uy hiếp Hànội, ông được cử làm Thương Biện lo việc giao thiệp và thương thuyết với Pháp. Năm sau, 1885 Nguyễn Khuyến lấy cớ đau mắt cáo quan xin về quê sống đời thanh bần nông thôn. Nguyễn Khuyến là nhà thơ trào phúng lẫy lừng trong văn học sử Việt. Về chữ Hán ông có Quế SơnThi Tập, về văn nôm ông có đủ loại về thi ca, phú, câu đối, hát nói, phú văn tế, lục bát và câu đối. 5-Tam Nguyên Đôn Thư Vũ Phạm Hàm (1864-1910) người làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Năm 1884, ông đỗ Giải Nguyên đời vua Kiến Phúc lúc mới 21 tuổi. Năm 1892 ông đỗ Hội Nguyên và Đ́nh Nguyên đời vua Thành Thái năm 29 tuổi. Ông được bổ đi làm Đốc Học Thanh Hóa, Ninh Ńnh rồi Đốc Học Hà Nội, và Án Sát Hải Dương. V́ có sự xích mích với viên Công sứ Pháp, nên công vụ khó khăn, ông phải xin cáo quan về hưu. Ông để lại một số câu đối, mấy bài thơ chữ nho. |