![]()
Hiện trạng TỨ ĐỔ TƯỜNG Bài của học giả Anh TuấnDẫn nhập Mỗi chúng ta khi nói đến ba chữ tứ đổ tường th́ ai cũng đều có một nhận xét không mấy thiện cảm đối với tệ nạn xă hội này v́ nó đă làm hư hỏng biết bao con người, làm tan nát biết bao gia đ́nh và xă hội, thậm chí làm suy nhược hủy hoại cả một thế hệ, một quốc gia nữa. Hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ cùng quí vị những hiểu biết xoay quanh tệ nạn này trên b́nh diện tâm sinh lư của con người cũng như trên b́nh diện văn hóa xă hội như thế nào. Vấn đề là tại sao người ta ai cũng biết tứ đổ tường là tệ hại nhưng nó lại luôn luôn có mặt trong cuộc sống không thể nào bài trừ được. Dầu bao nhiêu biện pháp, luật pháp được đặt ra nhưng vẫn không có kết quả, thậm chí các tôn giáo cũng tham gia cấm đoán nữa, nhưng cấm th́ vẫn cấm mà phạm th́ vẫn phạm là nghĩa tại sao? Chúng ta không t́m được nguyên nhân cuối cùng hay là t́m hiểu được nhưng khó nói, đành làm ngơ, bỏ ngỏ, bởi lẽ thú đam mê của con người nó nằm trong phạm trù bản chất sinh học, mà bản chất th́ khó ḷng mà thay đổi, cho nên con người là nạn nhân của chính ḿnh. Nghiêm chỉnh mà nói, những hệ luỵ do Tứ Đổ Tường mang lại là một thực trạng không chối căi, nhưng trong một tư duy hạn hẹp nào đó, ta phải công nhận ta đă đóng góp tích cực cho xă hội bằng cách đào tạo ra những nhân tài cho xă hội: nhà văn, nhà thơ, học sĩ, nhạc sĩ, cũng như những anh hùng hào kiệt đem lại nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa nhân loại nhờ vào Tứ Đổ Tường. Vô h́nh chung Tứ Đổ tường đóng vai tṛ như một chất xúc tác, một thứ tiếp liệu không chối căi được. Trong tài liệu này nhận định trên được lập lại nhiều lần, ta nên giảm thiểu diễn dịch nầy để tránh nhàm chán. Con người là một sinh vật có tư duy, vấn đề là phải biết xử dụng tư duy của ḿnh áp chế những tệ hại của đam mê vật chất nâng nó lên hàng sinh hoạt văn hóa cao, phục vụ và tạo dựng hạnh phúc cho con người.
Định nghĩa TỨ ĐỔ TƯỜNG
Tứ: Bốn, thứ tư. Đổ: vách. Tường: bức tường xây bằng gạch.
Tứ đổ tường là bốn vách tường bao kín, không có lối thoát ra ngoài Các bậc nho sĩ Việt từ xa xưa quen nói : 酒色財氣四堵牆 (Tửu sắc tài khí tứ đổ tường). Nói như thế là để so sánh bốn bức tường kín mít ấy với bốn điều tệ hại: Tửu, Sắc, Tài, Khí, mà hễ con người đam mê dấn thân vào đó th́ như là vào bốn bức tường không lối thoát, chịu chết trong đó luôn, hư hỏng cả cuộc đời, uổng phí một kiếp sanh.
1. Tửu: rượu. Say mê rượu thịt, nhậu nhẹt say sưa, cuồng tâm loạn trí, trí năo hư hỏng, tinh thần suy nhược, hết biết phải trái, hư thân mất nết, không c̣n phẩm chất con người. Cho nên người xưa mới nói: Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm, (rượu nhập tâm như cọp vào rừng), hay Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tọa thị (rượu nhập tâm như chó điên ngồi tại chợ). ![]()
2. Sắc: sắc đẹp của phụ nữ. Ham mê thú vui xác thịt nam nữ, chơi bời hư hỏng, phạm tội tà dâm, tinh mất khí hư, thần hồn mê muội, bỏ bê gia đ́nh. Cho nên người xưa có câu: Sắc bất ba đào dị nịch nhân: Sắc đẹp phụ nữ không có sóng mà dễ nhận ch́m người.
3. Tài: cờ bạc. Ham mê cờ bạc, tham lam lợi lộc, làm quấy liều mạng, bán đồ bán đạc để có tiền nhập ṣng, tan nhà nát cửa. Cho nên người xưa nói: Cờ bạc là bác thằng bần.
4. Khí: hút thuốc phiện, hít chích các chất ma túy, nghiện ngập, thân thể bịnh hoạn, mất hết nhơn phẩm, trộm cắp hay cướp giựt để có tiền mua thuốc, hút hít cho thỏa cơn ghiền. Sách Minh Tâm Bửu Giám có bài thi về Tứ đổ tường:
Tửu sắc khí tài, tứ đổ tường, Nghĩa là: Tửu sắc khí tài, tứ đổ tường,
Ít nhiều ngu trí ở trong rương. Tóm lược về Định Nghĩa
Tứ đỗ tường
là tiếng
Nam
Bộ,
thực ra đỗ là nói theo khẩu âm
Nam
Bộ,
đúng ra là đổ tường. Tiếng Việt có cái lạ là đôi lúc dùng
lẫn hán và việt,
nên đôi lúc bị hiểu lầm hoặc không
lọt tai.Tứ
đổ tường
có nghĩa là 4 cái nghiệp phá gia chi tử.
Bốn
cái nghiệp đó là bốn
loại lạc thú trần gian:
Cờ bạc -rượu chè - trai gái - hút sách. Ẩn ư của việc sử dụng chữ Hán của người xưa thật là thâm thuư, sự khám phá này khả tín v́ những lư do sau: Tuy tất cả đều là thú đam mê, nhưng Tứ đổ Tường không xuất hiện cùng một lúc trong xă hội mà qua thời gian, qua tŕnh độ văn hóa kinh tế của mỗi người ( Thí dụ con người chưa biết đếm, biết tính th́ làm sao có cờ bạc? Khoa học kỹ thuật chưa dạy cất rượu th́ làm sao mà say sưa?). Như vậy Tứ Đổ Tường có từ lúc nào, cái nào trước, cái nào sau? Do đó định nghĩa của nó tuỳ thuộc vào những yếu tố này: * N * Nguyên nhân của sự đam mê: bản chất hay lư tính? Nhân chi sơ, tính bản thiện, Câu này xuất xứ luận điểm của Mạnh Tữ về nhân tính. Tiếp theo là câu: tính tương cận, tập tương viễn : câu này xuất xứ luận điểm của Khổng Tử. Đó là hai câu nói mở đầu của cuốn Tam tự kinh ( sách vỡ ḷng dùng dạy trẻ của Trung Quốc) được soạn thảo như hát vè đọc cho trẻ học dễ nhớ. Tóm lại hai nhà hiền triết này cho rằng con người có tính lương thiện, nhưng có thể chịu ảnh hưởng của môi trường sống mà biến đổi. Nói một cách khác th́ con người là một sinh vật có tư duy, và tư duy đó đóng vai tṛ điều khiển cuộc sống con người. Vấn đề đặt ra là tư duy con người chịu ảnh hưởng của Tứ Đổ Tường đến mức độ nào? Nó đă dẫn dắt con người vào những hệ lụy đau khổ ra sao th́ quí vị biết rồi. Thiên Chúa Giáo cho rằng con người sinh ra đă phạm nhiều tội lỗi, cần được cứu rỗi. Trong các điều răn của Chúa, có việc cấm tín đồ gian dâm với vợ bạn (điều trai gái trong Tứ Đổ Tường).Theo Phật Giáo th́ con người vi phạm tam giới: tham sân si ( Tham và Si có trong Tứ Đổ Tường) Trong những loại t́nh cảm của con người: Hỉ (mừng), Nộ (giận), Ai (đau thương), Lạc (vui sướng), Ái (yêu), Ố (ghét), Dục ( muốn) th́ Lạc, ái, dục có liên quan đến Tứ Đổ Tường. Ngoài ra Phật c̣n cho rằng có 6 nguồn gốc gây sự đam mê gọi là lục căn hay lục dục: mắt, tai. mũi, lưỡi. thân, ư. Như vậy, Phật Giáo đă phân tích khá nhiều về dục vọng con người và chủ trương tu thân và diệt dục. Phật Giáo cấm Phật tử không được uống rượu v́ cho rằng rượu là nguyên nhân của mọi tội lỗi và bệnh hoạn, cấm phật tử không được quan hệ t́nh dục với người không phải là phối ngẫu của ḿnh. Như vậy, qua Tứ Đổ Tường dục vọng con người được giải quyết rất nhiều từ vật chất cho đến tinh thần với nhiều hệ luỵ của nó. Giữa thế kỷ 19, bác sĩ phân tâm học Sigmund Freud (1856—1939) tác giả ba khảo nghiệm về lư thuyết t́nh dục (1905), ông cho rằng bản năng bị dồn ép vào vô thức trong một điều kiện nào đó. sẽ điều khiển cách hành xử của con người. Bản năng không bao giờ thay đổi, mà môi trường sống và giáo dục huấn luyện đều chỉ là 1 lớp vỏ bọc. Nhận định này vào thời điểm đó bị công kích rất nhiều bởi các nhà duy tâm, nhưng không đầy một thế kỷ sau, khoa di truyền học khám phá ra ge`ne DNA và nhận định của ông mới không thể chối căi được. *Tứ Đổ Tường”: Sản phẩm của con người tạo ra nhằm mục đích giải toả dục vọng và bản năng nhưng nó lại là con dao hai lưỡi thẳng tay sát phạt tác giả của nó không chút thương tiếc.Nói đến Tứ Đổ Tường là nói đến 4 cái thú đam mê nhiều hệ luỵ cho xă hội: đó là Cờ bạc, Rượu chè, Trai gái, hút Xách. Bốn danh từ ghép này chứa đựng những đam mê có tác hại khác nhau, có thứ đam mê giới hạn một thời gian nào đó rồi lụn tàn, có thứ đam mê đeo đuổi dai dẳng suốt cả cuộc đời. Nếu tách rời các từ ghép này th́ ta có thể kể như sau:
Dân nước nào cũng biết uống rượu, nghiện rượu. Rượu đặc sản được nâng lên hàng quốc tuư. Anh Quốc th́ có : whisky, Scotch,Johny Wakker (Ông già chống gậy).Mỹ Quốc th́ có LSevengrown, Black and White, Gin. Nga Quốc th́ có Volka c̣n Phap Quốc th́ có : Cognac Martel (Remi Martin) Champagne Riêng Vietnam th́ có : Rượu lúa mới, rượu đế G̣ Đen, rượu nếp thang Hóc Môn. Rượu đế được giới văn nghệ b́nh dân gọi là rượu nước mắt quê hương. Ở Cao nguyên trung phần có rượu Cần của đồng bào Thượng chứa trong một cái ché. Thời Pháp thuộc, người Pháp được quyền bán rượu và á phiện, nơi bán những thứ này có biển đề chữ RA ( Région d’alchool) hoặc RO ( Région d’opium) c̣n dân thường cất rượu lậu sẽ bị bắt phạt. Phụ nữ Á Châu hầu hết không uống rượu, trái lại phụ nữ Tây Phương nghiện rượu có hạng, họ thường giấu khắp nơi trong nhà, thỉnh thoảng tu một hớp cho đến lúc phải vào Khám cai rượu. Ở nước ta rượu luôn luôn có mặt trong sinh hoạt hàng ngày: rượu lễ, rượu thường, rượu phạt, rượu mừng, rượu hợp cẩn. Đám cưới mâm trầu rượu phải có.. Giới lao động b́nh dân Việt Nam mát rượu vào hàng thứ 3 thế giới, chỉ sau Mỷ và Pháp, họ uống suốt ngày để trợ lực lao động: khuân vác nặng, đạp xích lô, đạp xe ba gác, thậm chí lái xe nữa . Rượu là thứ thức uống đa dụng: vui vầy, giải trí giải khuây, lấy cảm hứng, giết th́ giờ quên đời. Việc biết uống rượu được coi là nam tính: Dụng tửu phá thành sầu, Nam vô tửu như kỳ vô phong; họ được goị là đệ tử của Lưu Linh ( vua uống rượu của Tầu) là bợm nhậu , và là con trời: Hiu hiu gió thổi đầu non Mấy thằng uống rượu là con Ngọc Hoàng Người say rượu để lộ bản chất tư cách: nơi họ cảm xúc tê liệt và ư thức vô thức tiềm thức rối loạn, khiến họ không nhớ và không biết ǵ hết cả. Con cái họ chỉ số thông minh kém v́ ge`ne di truyền biến ảo. Có bài vè sau đây dùng trêu chọc mấy chàng say rượu: Một xị đả phá thành sầu hai xị mũi chảy đầy râu Ba xị ngồi đâu ngủ đó Bốn xị cho chó ăn chè *Xị= chai xá xị tức là chai root beer của hăng Phượng Toàn trong Chợ Lớn trước 1975 rất nổi tiếng, vỏ chai thường dùng để đong rượu bán. 1 xị=1/4 lit=6 ly whisky nhỏ.
Xin nhắc lại Sàig̣n năm xưa, ăn nhậu là một sinh hoạt đặc thù của dân thành phố, đi đâu cũng gặp quán nhậu, từ những quán cóc bán trà lá, rượu đế, đến các quán nhậu b́nh dân. Quán nhậu là một danh từ rất dễ thương v́ tính giai cấp của nó, một h́nh thức quảng cáo rất phổ biến độc đáo không một đất nước nào có được, đă ngon mà lại rẻ, ở đó giai cấp b́nh dân được tôn trọng và được phục vụ tận tâm ( khác với các nhà hàng sang trọng Tàu Mỹ quảng cáo phục vụ cung đ́nh, nhưng lại dở). Bước vào quán ăn, ai cũng thấy thoải mái v́ tính b́nh dân của nó. Xin nhắc những quán ăn b́nh dân của Sài g̣n năm xưa: Tám Lọ đường Bùi Thị Xuân và Cống Quỳnh, Ba Râu chợ Xóm Chiếu, Sống Trên Đời cổng bà Xếp Ḥa Hưng, các quán hai bên đường Đỗ Thành Nhân, đường hẹp bên này nh́n thấy bên kia, rượu vào sinh ẩu đả, bàn ghế bay qua bay lại nhưng tan cuộc th́ đâu vào đó ḥa cả làng.! Mỗi ngày khoảng 4 giờ chiều ( giờ tan sở) dân Sàig̣n thường ghé tiệm rượu thuốc Vĩnh Sinh Ḥa để uống rượu tồn tâm, hoặc uống bia bốc ( bây giờ là bia lên hơi) tại Hồ Văn Ngà Nguyễn Huệ. Một kư giả Tây Phương viết rằng những cơn mưa Hạ vào buổi chiều của Sàig̣n có mùi Alchool. Trong thi ca Việt nam hầu hết các nhân vật trong truyện Kiều đều có đụng đến rượu, chẳng hạn, khi *Kim Kiều gặp lại lần thứ hai: Chén hà sánh giọng quỳnh tương 453 Giải là hương lộn b́nh gương bóng lồng 454 * khi Kiều ỏ lầu xanh: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh 1233 Giật ḿnh ḿnh lại thương ḿnh xót xa 1234 * khi Kiều và Thúc Sinh ở Thanh lâu: Khi gió gác khi trăng sân 1295 Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ 1296 * khi Kiều tiễn Thúc Sinh về thăm vợ Chén đưa nhớ bữa hôm nay 1517 Chén mừng xin đợi bữa này năm sau 1518 * khi Hoạn Thư bắt Kiều dâng rượu: Vợ chồng chén tạc chén thù 1835 Bắt nàng đứng chực tŕ hồ hai nơi 1836: * khi Kim Kiều tái ngộ làm lễ cưới: Động pḥng d́u dặt chén mồi 3135 Bâng khuâng duyên trước ngậm ngùi t́nh xưa 3136 khi Kim Kiều đổi duyên chồng vợ ra t́nh bè bạn: Khi chén rượu khi cuộc cờ 3223 Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên 3224
*Nguyễn công Trứ trong bài Hàn Nho Phong Vị Phú: Vạn tống nhất sinh chung hữu tữu Sáng mồng một rượu say tuư lúy, tiêu khiển một vài chung lếu láo
Tú Xương: Say sưa nghĩ cũng hư đời Hư thời hư vậy say thời cứ say
Vũ Hoàng Chương cũng có thơ say: Em ơi lửa tắt b́nh khô rượu Đời vắng em rồi vui với ai
*Dương bá Trác: bài Hồ trường: Chí ta ta biết, Hồn ta ta say Nam Nhi sự nghiệp như hồ thỉ Hà tất cùng sầu đối cỏ cây
Trên đây đă tŕnh bày sự đam mê nghiện ngập đối với rượu và những tác hại của nó. Trong Phật Giáo việc cấm uống rượu là một trong 5 giời cấm và cho rằng rượu là nguyên nhân của mọi tội lỗi và bệnh hoạn. Nhung dù sao việc đam mê rượu vẫn là một thực thể, một bản chất của con người., khi có thể nếu không nói là không có bao giờ bài trừ được, phải chừa một kẽ hở v́ nghĩ cho cùng trên một khía cạnh nào đó rượu chè vẫn thể hiện nét văn hóa đặc biệt của con người mặc dù hại nhiều hơn lợi. |
||
*Chè Chè nằm trong liên từ Rượu Chè trong TứTỗ Tường. Chè chỉ là tiếng đệm, tiếng Bắc gọi tên Trà. Thật ra nghiện uống trà là một thú vui, nó không nguy hại cho sức khoẻ mà trái lại. Nó không đem lại tác hại nào cho xă Hội cả , tuy nhiên uống trà cũng là một đam mê, nên ta phải t́m hiểu nó.Trà là một thức uống phổ biến trên thế giới. Người Ấn Độ có buổi uống trà vào xế chiều. Dân Á Đông dùng trà thay uống nước lă. Dân Âu Châu biết uống trà khoảng thế kỷ 16 khi mà các đội thương thuyền Châu Âu đặt chân đến bán đảo Nam Á Ấn Độ Sirilanka ( Ceylan) Bangladesh. Theo thống kê, th́ có 500 giống trà khác nhau được trồng nhiều nhất ở Á châu, Nam Mỹ , Nam Phi. Úc Châu và các đảo Nam. Thái B́nh Dương cũng có trồng trà. Từ lúc gieo trồng cho đến khi thu hoạch chế biến, trà đă trải qua một quá tŕnh công phu khá phức tạp Nói chung sản xuất trà theo kiểu công nghệ hóa chỉ có lượng mà không có phẩm, các công việc sao, sấy tẩm mùi thơm hóa học đều không đạt yêu cầu. Trài qua các dây chuyền máy móc đến lúc đóng hộp th́ Trà đă biến chất, mất mùi vị, v́ độ khô phải được áp dụng lúc xuất khẩu.C̣n nếu biến chế trà theo lối thủ công cổ truyền th́ tốn nhiều lao động, nhiều thời gian nhưng phẩm chất cao, ngược lại số lượng ít (100gram trà sen ở Việt nam bán trong dịp Tết giá 60 dollars USD) Có một điều quan trọng ít ai nghĩ đến là các thực phẩm Á Đông kể cả Trà và cà phê đều phải có một độ ẩm nhất định, nếu không sẽ bị biến chất v́ khô cằn và vô thùng trong việc đóng hộp. Các loại trà: ướp nhà, ướp sen, ướp ngâu, ướp sói (ướp sao là công phu nhất).Tây phương th́ xay lá trà thành bột đóng trong túi nhỏ (lipton),tẩm chanh,quế, ngũ vị mất cả mùi trà. Nghệ thuật uống Trà: trà pha b́nh thường, người Việt miền Bắc uống chè xanh bằng bát, người Việt miền Nam uống trà đá giải khát. Người Anh Pháp thường uống trà buổi chiều.
Nét văn hóa Sàig̣n năm xưa: trồng Lài để ướp trà
Vào đầu mùa Mưa, xă An Phú Đông, G̣ vấp Gia Định trồng Lài để ướp trà và bán lẻ từng xâu. Mỗi sáng sớm, có các em gái nhỏ đi xe bus đem các xâu lài bán cho các quán chợ, hoặc bán cho tài xế Taxi mua treo trong xe. Các nữ sinh mua làm ṿng mang tay đến lớp. Ra đường đâu cũng phảng phất hương lài, khiến chúng ta chạnh ḷng nhớ kỷ niệm xưa. Trước 1975, ở Sàig̣n có mở các pḥng trà ca nhạc từ xế chiều, giới trẻ đến đó để ca cho nhau nghe v́ có sẵn nhạc cụ, đó là pḥng trà Đức Quỳnh ( Cao Thắng), đầu tiên, pḥng trà Ḥa B́nh Quách thị Trang, pḥng trà Chiều Tím Vơ Tánh, pḥng trà Thằng Bờm Cây Tre ở Đa Kao nơi đây ca sĩ Khánh Ly được mệnh danh là nữ hoàng chân đất hát nhạc Trịnh Công Sơn một thời. Tóm lại nghiện trà không phải là một đam mê tệ hại trong Tứ Đổ Tường, trái lại nó là một thức uống có lợi cho sức khoẻ, nó đă có mặt trong sinh hoạt văn hóa như trong Kiều có:
Khi hương sớm khi trà trưa 1297 Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn 1298 Khi Kiều sống với Thúc Sinh ở Thanh Lâu Mảng vui rượu sớm trà trưa 1473 Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh 1474
Nguyễn Khuyến cũng có bài thơ nói về uống Trà lúc ông đă bị ḷa: Lâu nay ông chỉ nghe bằng mũi Chẳng biết mùi thơm một tiếng khà!
C̣n Tú Xương: Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó khuấy ta
Trong quá tŕnh thành lập nước Mỹ có một giai thoại lịch sử về trà. Năm 1773 để chống việc đánh thuế trà quá nặng của Mẫu Quốc Anh, một đêm tại Boston bang MA, một số dân cư đă đột nhập vào kho trà đem quẳng xuống biển số trà trong kho, khơi mào cho cuộc khởi nghĩa dành độc lập của nước Mỹ chống Đế Quốc Anh do ông Washington lănh đạo.
Từ ngữ Trai Gái trong Tứ Đổ Tường có một khái niệm đơn giản là những quan hệ t́nh dục không lành mạnh v́ phạm luân lư và đạo đức, phá hoại gia cang và hạnh phúc của người khác, việc đam mê t́nh dục đưa đến nạn măi dâm trong xă hội, buôn phụ nữ trẻ em để làm nô lệ t́nh dục….ấy là chưa kể hiện tượng đồng tính xuất hiện chính thức từ cuối thế kỷ qua, tất cả đều gây nhức nhối cho xă hội qua những bịnh trạng giang mai , nhiễm HIV AIDS chưa t́m được thuốc chữa mà chỉ có cách lo pḥng ngừa thôi. Đây là tệ nạn nan giải của xă hội ở bất cứ thời đại nào. Từ xưa đến nay người ta nỗ lực áp chế bản năng t́nh dục của con người bằng nhiều thứ luật lệ cấm đoán, coi đó là một hành vi thô tục vi phạm luân lư đạo đức., người ta đă lên án mà không cho biện hộ, không đi t́m cái gốc cho nên cấm th́ vẫn cấm và phạm th́ vẫn phạm. Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo đều cấm tín đồ không được làm điều tà dâm (10 điều răn của Chúa và giới thứ 3 trong ngũ giới của Phật. Khổng Tử th́ nam nữ thọ thọ bất thân ( kết quả tỉ lệ nghịch dân chúng Tàu hiện trên 1 tỉ người). Vấn đề là chúng ta có đủ can đảm để mổ xẻ, phân tích nghiêm túc để t́m ra nguyên nhân cuối cùng của nó hay không? Từ xưa đến nay người ta vẫn né tránh việc mở lại hồ sơ này, đụng tới nó là bị dị ứng và nó đă được khóa chặt bởi bao nhiêu pháp chế luân lư đạo đức khiến cho mọi người nghi ngờ thực chất của nó. Con người là một sinh vật như các sinh vật khác, nhưng khác ở chỗ có lư trí có tư duy. Lư trí chi phối bản năng dục vọng qua môi trường sống.,qua tập quán, qua nền giáo dục và qua những luật lệ do con người đặt ra. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học th́ các sinh vật đều có một khuynh hướng đam mê một thứ ǵ đó từ vật chất đến tinh thần và con người cũng không thoát khỏi nhận xét đó, đôi khi nó c̣n gia trọng hơn. Con người có 7 loại t́nh cảm: hỉ ( mừng), nộ (giận) ai ( buồn thương), lạc (vui), ái (yêu), ố ( ghét) dục (muốn). Sự đam mê ( dục) theo Phật Giáo có 6 nguồn gốc ( lục dục): mắt, tai, mũi, lưỡi,, thân, ư, tất cả đều mang cảm xúc riêng. Như vậy việc luyến ái nam nũ bắt nguồn từ ái ( yêu) và dục ( muốn), trong đó thân dục ( nhục dục) là bạo nhất. Sự luyến ái nam nữ gồm 2 phần tinh thần và vật chất. Theo quan niệm Á Đông th́ t́nh yêu tinh thần là tiền đề cho t́nh yêu vật chất, nó quan trọng nên họ đề cao vai tṛ của nó nhằm duy tŕ trật tự xă hội.Theo các nhà khoa học xă hội th́ t́nh yêu (love) và t́nh dục( sex) gần như là một, sở dĩ có thứ tự là do sự áp chế của lư trí con người. Xin quí độc giả bỏ qua chuyện luyến ái tinh thần v́ nó thuộc phạm vi quá rộng lớn, nó là nét văn hóa quá phức tạp nhất và để lại biết bao di sản văn chương văn học cho con người bởi những xúc cảm mà nó đă đem đến: thăng hơa củng có mà khổ đau cũng có.
Ở đây chúng ta chỉ phân tích t́nh dục (sex) v́ nó là thủ phạm chính trong Tứ Đổ Tường và gây tệ hại nhiều nhất cho xă hội. Người ta kết án tà dâm, c̣n chính dâm th́ sao? chẳng có câu trả lời nào và bỏ ngỏ từ xa xưa đến bây giờ. |
||
Chúng ta đang đi vào thế kỷ 21 và lại đang ở Mỹ nữa, một đất nước được gây dựng bởi những lư tưởng tự do và b́nh đẳng của con người, tŕnh độ dân trí cao, tư duy phát triển toàn diện, tự do tuyệt đối, trong đó có tự do luyến ái nam nữ. Đối với các nước Âu Mỹ, việc quan hệ t́nh dục được xác nhận là một đời sống (sex life) do đó họ rất chú trọng vệ sinh t́nh dục, và coi việc quan hệ t́nh dục là một sinh hoạt b́nh thường của bản năng, không quan trọng nó mà cũng không cấm đoán nó. Để ngăn ngừa những bệnh hoạn và tệ nạn xă hội do nó gây ngay từ buổi đẩu, các trường học đều có những lớp hướng dẫn về luyến ái nam nữ, vệ sinh pḥng ngừa. Kế hoạch gia đ́nh, chuẩn bị một cuộc sống gia đ́nh mạnh khoẻ hạnh phúc, một xă hội an toàn. Đối với những tệ nạn trên, người ta t́m cách qui kết chúng lại các tụ điểm để giải quyết vấn đề do bản năng, lái nó đi vào chiều hướng lành mạnh nghệ thuật, giải trí , hơn là một kỹ nghệ khai thác bản năng, để con người có một tŕnh độ văn hóa cao hơn. Đó là lư tưởng của các nhà Xă hội học, nhưng thực tế chỉ có được phần nào, v́ tư bản nhảy vào kinh doanh t́nh dục biến nó thành một kỹ nghệ khai thác bản năng của con người, do vậy việc cấm đoán và thỏa măn gần như sóng đôi nhau, nhưng dù sao đi nữa Xă hội vẫn đă kiểm soát và giảm thiểu phần nào những tệ hại đó. Đi sâu vào vấn đề, xưa nay các nhà nghiên cứu tâm sinh lư và t́nh dục học đều xác nhận bản năng con người có một sức thật mạnh mà lư trí có lúc không chế ngự được. Bác sỹ Sigmund Freud cho rằng bản năng dục bị dồn nén vào vùng vô thức nó sẽ chỉ huy cách hành xử của con người khi có điều kiện. Theo ông, th́ môi trường xă hội, sự giáo dục phát triển tri thức luân lư, đạo đức, pháp chế chỉ có thể làm vỏ bọc bên ngoài của bản năng mà thôi. Ông cho rằng bản năng là một thứ vật chất không biến đổi được, là như một di truyền trong sinh vật vậy ( vào thời đó thuyết di truyền học c̣n đang tranh luận). Chấp nhận luận chứng trên, ta có thể t́m hiểu nguyên nhân của các bệnh sau đây: 1- Bệnh sex addict c̣n gọi là sexual compulsivity thường gặp phải ở các đấng tài ba như nhà tu hành đạo đức, trí thức, chính trị, kinh doanh đại tài, nhà quân sự hoặc ông vua liêm chính thân bại danh liệt v́ những vụ tai tiếng t́nh dục đôi lúc không thể tin được v́ nó quá đặc biệt . 2- Bệnh Bipolar disorder hay gặp ở các tài tử, nghệ sỹ văn sĩ lỗi lạc, tâm tư họ thường rối loạn bởi sự hưng phấn và trầm cảm chồng tréo nhau khiến họ mất tự chủ dẫn đến tự hủy diệt tự sát (Ernest Hemingway). Y học cho rằng do sự thay đổi hóa chất scrotorium và dopamine trong năo bộ, trên phương diện tâm lư người ta cho là bệnh nghề nghiệp. 3- Bệnh Alleyzeimer: thoái hóa tế bào năo mà ư thức, vô thức, tiềm thức rối loạn hoặc ngưng hoạt động khiến bệnh nhân chỉ c̣n sống trong đời sống thực vật. Nói tóm lại việc nghiên cứu khoa học đă cho thấy bản năng đóng vai tṛ chủ đạo trong cuộc sống t́nh dục con người, đôi khi nó c̣n lấn át cả lư trí, nên đă có nhận định “t́nh yêu trai gái là bản năng đă được tư duy hóa” là vậy. Xă hội Âu Mỹ mặc dù có cuộc Cách Mạng t́nh dục để cho Nam Nữ tự do luyến ái, b́nh thường hóa sinh hoạt t́nh dục, bất chấp việc kinh doanh kỹ nghệ hóa hoạt động t́nh dục như các club, showgirl, massage, tắm hơi măi dâm trá h́nh, sex tour, sex toy, buôn phụ nữ trẻ em làm nô lệ t́nh dục, nhưng đạo đức Xă hội vẫn được duy tŕ, luật pháp vẫn được áp dụng, các sinh hoạt Tứ Đổ Tường ( trong đó có t́nh dục) được nâng lên hàng giải trí nghệ thuật có văn hóa, việc chạy chữa và pḥng ngừa các bệnh do Tứ Đổ Tường gây ra được thi hành tích cực. Trở lại Châu Á, sinh hoạt t́nh dục coi là một điều cấm kỵ xấu xa, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, trai gái lớn lên đều bị răn đe hù dọa, cấm đoán tiếp xúc, như là một luật lệ Nam Nữ thọ thọ bất thân, hậu quả con người phát triển không b́nh thường, bản năng bị dồn nén, vô t́nh tạo ra hệ luỵ cho xă hội. Á Đông đặt đạo đức lên trên, không coi trọng giá trị luyến ái tinh thần, lên án điều tà dâm nhưng lại tránh né chính dâm, rốt cuộc chính cũng như tà đều xếp trong bóng tối của đạo đức giả. Họ quan niệm hôn nhân là nghĩa vụ truyền giống nối giơi tông đường, có những cuộc hôn nhân cưỡng chế xếp đặt không có t́nh yêu mả chỉ có t́nh nghĩa vợ chồng, nam nữ không b́nh đẳng, bảo thủ tệ hại c̣n hơn bên Âu Mỹ, bên cạnh việc hưởng lạc không khác ǵ nhau. Ngày xưa các vua chúa tha hồ trác táng tam cung lục viện khiến ông vua trẻ lên ngôi không được bao lâu th́ băng hà về chầu tiên đế. C̣n ngoài xă hội dân sự th́ sao? cũng thanh lâu hồng lâu kỹ nữ-- giống như vũ trường hộp đêm ở Âu Mỹ vậy, việc hưởng lạc cũng được nâng lên nghệ thuật giải trí của giai cấp phong lưu, các cụ th́ chuyền tay nhau toa thuốc Lăo của vua Minh mạng. |