Thành phần xã hội  & địa vị Xã hội

                                 (lấy ý  từ bài của học giả Nguyễn Lê Hiếu)

 

  Thành phần xã hội

Xã hội Việt ngày xưa chia  làm  4 nhóm  sinh hoạt kinh tế, đó là  sỹ, nông, công, thương .

Giới Sỹ

  Giới sỹ gồm những  người theo học  Tứ Thư ( Đại học, trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử)  Ngũ Kinh ( Thi Thư, dịch, Lễ ký, Xuân Thu Nhạc .Họ dùi mài kinh sử, đi thi đậu, tiến vi quan, thối vi sư, làm quan trong triều đình,làm tướng ngoài biên giới, làm thầy  dạy học.Giới sỹ  đặt mình vào vị trí số 1 vì  mình hướng dẫn cả xã hội và mình tổ chức xã hội cho có trật tự  .

 Giới Nông

Giới nông gồm những người tay lấm chân bùn suốt ngày  cầy, bừa, tát nước vào cánh đồng, làm cỏ , gặt hái, làm mùa    ở những cánh đồng đầy  nước để mong có lúa  nuôi sống dân, và trồng tỉa ở những cánh đồng khô cạn để có rau,  và hoa trái làm món ăn cho mọi người. Giới nông  nghĩ mình phải đứng đầu, vì mình cầy cấy cung cấp thực phẩm nuôi sống xã hội.

Hai giới  Nông  và Sỹ  tranh nhau đứng nhất nhì, nên có câu nói :

                   Nhất  sĩ  nhì nông hết gạo chạy rông  nhất nông nhì sỹ

 hoặc câu:    Nhất nông  nhì sỹ gặp khi nước bí, nhất sỹ nhì nông

 

Giới công nghệ

Trong xã hội cổ, dân  thường tự túc làm các vật dụng, đem các đồ gia dụng.đổi chác   lấy lúa   Thế cho nên , ngành  công nghệ không được quý.

         

Giới thương

Ngành thương  được coi  như là kẻ trung gian ngồi không  ăn trên của người sản xuất và ăn bớt  của người tiêu dùng .  Điều này có vẻ nặng nề hơn ở xã hội nông nghiệp miền Bắc.  Trái lại, xứ Đàng Trong có nhiều tiếp xúc với giới  con buôn ngoại quốc.  Sau khi tiếp thu đất Chàm (Chiêm Thành, Chămpa), Dân Việt  có được thương cảng Hội An  nơi buôn bán sầm uất, có tầu buôn của giới  Ả Rập và Âu Tây, nên  công thương cũng được  quý trọng. 

 

Địa vị Xã hội

 Đi ra làng xã thì  thì   xã hội chia thành nhiều cấp bậc :

  -Quan-viên ( chức sắc/ cựu chức sắc và   các người có đi học đạo Thánh Hiền..) Thành phần này nắm chức vụ hội đồng kỳ hào và hội đồng kỳ mục  trong Làng  Xã. Hội đồng kỳ hào có tiên chỉ là người  đứng đầu, ông là  chức sắc ở cấp nhà nước hay người gìa có uy tín trong làng... Sau là hội đồng kỳ mục, đứng đầu là lý trưởng  lo việc  thường xuyên trong làng, có Cai Xã giúp lo việc an ninh... Thành phần này được  miễn thuế. 

   

  -Lão hạng ( người già  trên 55 hay 60): khi đến tuổi nhập hạng này  đương sự  phải làm tiệc đãi làng. Thành phần này cũng  được  miễn thuế.

 

Tráng hạng ( giới trẻ):

Tráng hạng gọi là dân trai tráng phải chịu sưu dịch và công ích

    Khi nói về địa vị  trong xã hội nông nghiệp, thì nghĩ ngay đến   thực trạng xã hội nông nghiệp cần nhiều nhân công. Vì  cần nhiều tay làm việc , nên gây ra cảnh  đa thê, nhiều vợ, nhiều con . Các sinh hoạt xoáy vào gia đình , làm nổi bật  vai trò  của đàn ông .  Người đàn ông giữ vai trò  gia trưởng, tộc trưởng, vì thế   vai trò  của họ thành quan trọng  ( nhất nam viết hữu..).   Đia vị  đàn bà thời xưa bị suy kém vì tệ trọng nam khinh nữ  ( nhất nam viết hữu...)Người đàn bà  bị ràng buộc  trong các khuôn khổ nho giáo ( tam tòng tứ đức, thủ tiết, không tái giá ). Có khi vợ bé nàng hầu là một thứ nhân công rẻ tiền chứ không cần có con  nên  có khi sinh con, vợ lớn đặt cho tên là Thêm, Thừa, v. v.

Con cái trong gia đình  cũng như con người trong xã hội phải theo quy luật nho giáo ( tam cương ngũ thường  ( hay ngũ luân, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Cũng như viêc kế thừa: con trai kế thừa, con gái lấy chồng thành gần như người ngoài.

  

  -Lão hạng ( người già  trên 55 hay 60): khi đến tuổi nhập hạng này  đương sự  phải làm tiệc đãi làng. Thành phần này cũng  được  miễn thuế.

 

Tráng hạng ( giới trẻ):

Tráng hạng gọi là dân trai tráng phải chịu sưu dịch và công ích

 

    Khi nói về địa vị  trong xã hội nông nghiệp, thì nghĩ ngay đến   thực trạng xã hội nông nghiệp cần nhiều nhân công. Vì  cần nhiều tay làm việc , nên gây ra cảnh  đa thê, nhiều vợ, nhiều con . Các sinh hoạt xoáy vào gia đình , làm nổi bật  vai trò  của đàn ông .  Người đàn ông giữ vai trò  gia trưởng, tộc trưởng, vì thế   vai trò  của họ thành quan trọng  ( nhất nam viết hữu..).   Đia vị  đàn bà thời xưa bị suy kém vì tệ trọng nam khinh nữ  ( nhất nam viết hữu...)Người đàn bà  bị ràng buộc  trong các khuôn khổ nho giáo ( tam tòng tứ đức, thủ tiết, không tái giá ). Có khi vợ bé nàng hầu là một thứ nhân công rẻ tiền chứ không cần có con  nên  có khi sinh con, vợ lớn đặt cho tên là Thêm, Thừa, v. v.

Con cái trong gia đình  cũng như con người trong xã hội phải theo quy luật nho giáo ( tam cương ngũ thường  ( hay ngũ luân, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Cũng như viêc kế thừa: con trai kế thừa, con gái lấy chồng thành gần như người ngoài.

 
   

                                                             

          làng.

 

 

1- Nhân vật mõ gắn liền với cái đình làng.

 Hầu hết các làng Việt ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trừ những làng mới thành lập hoặc quá nghèo, đều từng có người rao mõ. Nghiên cứu nghề mõ chắc chắn sẽ làm sáng tỏ nhiều vấn đề về cơ cấu tổ chức, sự vận hành và đời sống của làng Việt nói chung.  Mõ được coi là tổ của ngành thông tin truyền thông. nghề mõ ra đời cùng đặc trưng của nó cho phép khẳng định, tổ chức làng xã lúc đó đã đạt được một sự ổn định nhất định về cơ cấu.

 

 2- Lịch sử về MÕ LÀNG một  truyền thông đại chúng ở Việt Nam

 Trong Tạp chí Xưa và Nay số 2 tháng 2/1995, hai nhà nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Văn Sự và Nguyễn Xuân Diên cho rằng: Có hai tư liệu rất quan trọng giúp "xác định niên đại" của nhân vật này là: Hồng Đức Quốc Âm thi tập và vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính.

Trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập (ở phần phụ lục) có bài Thằng Mõ, và trong chèo cổ Quan Âm Thị Kính  vai Mẹ Đốp là  vợ mõ .Vở chèo này đã được khẳng định là ra đời vào thế kỷ  XV. Thằng mõ xuất hiện khá nhiều trong các vở chèo cổ của Việt Nam. Thằng Mõ có mặt ở nông thôn Việt Nam không biết từ bao giờ, nhưng chắc chắn là đã từ lâu.Thằng Mõ được  xem là phương tiện truyền thông sơ khai nhất trong xã hội cổ truyền Việt Nam. Hệ thống truyền tin này đã tồn tại đến giữa thế kỷ thứ XX và đóng góp giá trị nhất định trong việc mang tin tức đến cho dân làng, thông tin bằng miệng của xã hội Việt qua nhiều thế kỷ, khi các phương tiện thông tin đại chúng chưa phát triển.

 

a-     Trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập,

  Vua Lê Thánh Tôn (1442 - 1497) đã làm một bài thơ nôm vịnh thằng Mõ ngợi khen vai trò của "thằng mõ":

"Mõ này cả tiếng lại dài hơi,

Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi.

Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi,

Kim thanh rền rĩ khắp đòi nơi.

Trẻ già chốn chốn đều nghe lệnh,

Làng nước ai ai phải cứ lời.

Trên dưới quyền hành tay cắt đặt,

           Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi."
Lời lẽ bài thơ có vẻ kính trọng, ngược hẳn với địa vị của Mõ trong xã hội xưa.

 

 

  b--  Trong chèo cổ Quan Âm Thị Kính

 Hình tượng thằng mõ được quần chúng lựa chọn để bày tỏ, gửi gắm khát vọng tự do của mình. Có lẽ chính sự bất công và thiếu đạo đức của xã hội đã khơi dậy sự phản kháng của giới văn nghệ sĩ. Nhiều tác giả bênh vực Mõ, tạo ra những tình huống bất ngờ để cho Mõ đóng vai trò gỡ rối cho đám chức sắc trong làng. Mọi người còn nhớ thằng Mõ của Ngô Tất Tố có tài băm thịt gà, xứng đáng với danh hiệu nghệ sĩ. Chỉ có thằng Mõ mới gánh nổi trách nhiệm chia phần công bằng cho cả làng. Một con gà " chỉ một người ăn cố thì  hết", được Mõ chặt chia làm 23 cỗ, 83 suất. Không có "thiên tài" băm gà của Mõ, làng nước sẽ khó tránh được những cuộc cãi nhau, tranh giành, thậm chí hại ngầm nhau.
Nhưng có lẽ giỏi nhất, thông minh nhất trong làng Mõ, thì phải gắn huy chương vàng cho thằng Mõ làng Cổ Nhuế của Hồ Hữu Tường. Thằng Mõ này  được  nhắc tớl trong cuốn Phi Lạc sang Tàu của Hồ Hữu Tường.    Thằng Mõ  này được ông tiên chỉ của làng mời làm cố vấn, giải quyết tất cả những chuyện rắc rối điên đầu.  
Nam Cao cũng đưa ra một thằng Mõ, vốn hiền lành lương thiện nhưng bị xã hội làm xấu đi.

 

3-- Chức phận Người rao mõ

 Thằng mõ là người có nhiệm vụ gõ mõ và thông báo theo chỉ thỉ của các chức sắc trong các làng xã cổ Việt Nam. Nhờ người rao mõ mà dân làng không những biết mệnh lệnh của lý trưởng mà còn biết chiếu chỉ của vua, không những biết tin tức trong làng mà còn biết tin tức trong nước. Mõ không phải chỉ phục vụ cho lý trưởng và chức dịch trong làng xã, mà cho cả cộng đồng. Mõ không phải là của riêng ai, mà của cả làng, gánh trách nhiệm mà cả làng giao phó. Mõ là người lao động, nhưng lao động của mõ là lao động "dịch vụ" chứ không phải lao động sản xuất. Khi làng vào đám, cả gia đình nhà mõ được huy động ra "việc làng". Khi làm nô lệ chung cho cả làng xã thì Thằng mõ  được gọi là đạc phu. Khi nào trong làng có việc gì thì tên đạc phu phải đi mời mọc cả làng ra đình hội họp. Hoặc có việc gì lễ dịch báo cáo cho làng biết thì đạc phu gõ mõ đi rao suốt các ngõ. Nhà tư gia ai có việc hiếu hỉ hoặc có việc giỗ kị muốn mời làng thì cũng sai đạc phu đi mời.

 Công việc của anh ta là đi khắp làng gõ mõ gọi dân làng đến tề tựu ở sân  đình để nghe những tin tức mới xảy ra trong làng. Ngoài công việc trên, Thằng mõ có nhiệm vụ tuần phòng ban đêm và gõ từng hồi mõ báo hiệu giờ giấc dưới sự hướng dẫn của viên chức và các tráng đinh trong làng.

 

4-  Tư thế thằng mõ trong làng xã  

 Phần đông mõ làng là những người tha phương cầu thực, từ chỗ khác tới làng kiếm ăn.  tất cả họ đều là dân ngụ cư. Trong làng, người đến ngụ cư phải gánh một thân phận thấp kém, bị dân làng khinh miệt, Mõ bị coi là nhân vật thấp nhất trong xã hội, chỉ có quyền cúi đầu để mọi người sai bảo. Mõ chỉ được dựng nhà ở rìa làng, không được vào giáp, không được tham gia mọi công việc tại đình, Người làm mõ nhưng không ai căm ghét Con cái mõ không được phép đi họcVô hình trung, nghề mõ trở thành cha truyền con nối. Người này làm việc này không có lương bổng. Tuy nhiên anh ta thường được làng cấp cho một mảnh đất công nhỏ để cày cấy hoặc được đến mùa gặt thì được các địa chủ cho một ít thóc. thường sống bằng nghề làm thuê,... Khi chia phần, dân làng chia cho mõ một cỗ riêng, nếu ăn không hết thì mang về. . Do "gần gũi" các chức dịch, mõ biết rõ nội dung của các cuộc tranh giành giữa các cá nhân hay dòng họ, nhưng mõ không ủng hộ một cá nhân hay phe cánh nào.

 

5--Nguồn gốc chữ thằng Mõ và Chữ cái  Mõ

  Chữ thằng Mõ  từ đâu ra ?

      Có hai kiểu giải thích:

Mời ai, tìm ai, tiếng hán việt là "Mộ". Chữ Mộ có thể đã được chuyển qua chữ nôm thành mõ. người đi mời (Mộ) làng nước..

-  Sách vở xưa  cũng dùng chữ "mỗ" để gọi những người không biết tên. Chữ mỗ là đại danh từ không chỉ rõ cái gì, người nào, được dùng khá phổ biến. Có thể cho rằng chữ Mõ, chỉ một người không tên tuổi, là từ chữ Mỗ mà ra.

 

   Còn Chữ cái  Mõ từ đâu ra ?

đồ vật dùng làm hiệu lệnh: mộc đạc và Điêu Đấu 

-   Trong bài thơ nôm vịnh thằng Mõ của Vua Lê Thánh Tôn có câu:   

                              Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi,

                                       Kim thanh rền rĩ khắp đòi nơi.
Mộc đạc nguyên nghĩa là cái chuông bằng đồng, có quả lắc bằng gỗ. Ta có thể suy ra rằng ngày xưa mõ làng dùng chuông, trước khi dùng mõ.

-   Trong Bài thơ Thác thi (Vịnh cái mõ) của Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu :
                                 
Điêu đẩu thiên cao dạ chuyển canh.
          
 Được dịch là : Trời cao, tiu kẻng, đêm dời canh.

 

Điêu đẩu  được chú thích như sau :   "Điêu là cái kẻng (xưa gọi là cái tiu), đẩu là cái đấu dùng trong quân đội để đong gạo nhưng cũng dùng để gõ làm hiệu lệnh. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, Hà Nội, 1983 cũng có nhắc tới  hai đồ vật  Điêu và đẩu đều dùng như kẻng và mõ trong quân đội"  Điêu đẩu , tiu kẻng  đều làđồ nghề của thằng Mõ

nên  được gọi chung là  cái mõ.
Tóm lại, thằng , người đi mời mọi người trong làng, là do chữ M (mời) hoặc chữ MỖ  (không tên tuổi) mà ra. các đồ nghề của thằng Mõ  dù  là Mộc đạc hoặc  dù  là Điêu đẩu để làm hiệu lệnh, để rao gọi, đều được gọi là mõ. Cái mõ có thể được làm bằng gỗ, bằng tre, bằng gạch đá hay bằng sắt. Ở điếm làng có cái mõ cá làm bằng đá tạc hình con cá. Tấm sắt cầm canh (chữ hán việt là thác) cũng được gọi là mõ canh.   Cầm cái mõ làm bằng gộc tre khô và cái dùi tre trong tay, người rao mõ đánh một hồi cho mọi người chú ý lắng nghe rồi dõng dạc cất tiếng "rao" cho cả xóm, cả làng biết tin tức hoặc mệnh lệnh mà nhà chức trách muốn thông báo. 

 

 
 

 

                                               

            Xã hội Việt:  Kinh tế nông nghiệp 

                           (lấy ý  từ bài của học giả Nguyễn Lê Hiếu)

 

 

Khoa khảo cổ cho thấy  ở Đông Nam Á cách đây năm nghìn năm,  vùng đồng bằng sông Hồng Bắc Việt  khí hậu gió mùa, mùa mưa khí ẩm  khiến dân Lạc Việt khai thác nước trồng lúa.  ( Lạc Việt có nghĩa là  người Việt   giồng lúa).. Lúc đầu  dân Lạc Việt chưa có nông cụ, nhưng sau nhờ người Tầu mang đồ  cầy cấy bằng sắt vào giúp cho nông nghiệp phát triển ( Nhâm Diên dạy dân dùng nông  cụ bằng sắt)..Đất sông Hồng   thì mầu mỡ mỏng, cầy nông , phải lo dẫn thủy nhập điền. Còn  sau này khi quốc gia mở rộng biên giới, thì  đất miền nam rộng, lụt lớn, phù sa nhiều, cày sâu, cần khai mương thoát nước

Dân Việt, con cháu dòng giống  Lạc Việt làm nghề nông  nên lệ thuộc  vào thời tiết, dẫn đến việc thờ  các thần mưa, thần nắng, thần lúa , thần đất ( thổ thần).. và có những lễ  hội gặt hái, trai gái sinh hoạt sau mùa gặt   v..v.

Đối với dân Việt chế độ ruộng đất quan trọng  cho nghề nông. Đất thuộc quyền nhà nước. Triều đình  chia cho làng xã khai thác. Làng xã lại chia cho dân chúng  canh tác,   Cha mẹ để lại cho con cháu, lâu tưởng là tư sản, nhưng thật ra, khi nào cần hay muốn, nhà nước lấy lại tự nhiên  ( đỗ trạng được cắm đất). Hay khi nào  người dân bỏ trống đất  không canh tác, thì  đất  cũng bị thu hồi lại. Lại có chỗ đất để riêng ra cho dân chúng chia nhau canh tác cho làng xã  hay nhà nước, gọi là công điền.   Khi cha mẹ chia gia tài, lắm khi ruộng bị chia thành lô  càng ngày càng nhỏ, canh tác ít lợi. Có khi nhà giầu mua lại hay lấy đất trừ nợ, nên lại có người giầu có quá nhiều đất. Nhà nước  đặt ra việc cải cách ruộng đất ( Lê Quý Ly cho một người dân  không được quá  10 mẫu, thu đất dư, lại đem chia cho nhà giáo v.v. Các Chúa  Trịnh  cũng nhiều phen kiểm kê ruộng đất.)

      

Thuế má

 Thuế thu bằng lúa hay bằng tiền. Người già, tàn tật  được giảm thuế,miễn làm dịch. Sang thời Pháp , thuế thay đổi nữa.   Sau đây là những loại thuế :

Thuế  ruộng đất :    Lúc đầu thuế đánh theo đất công hay tư; lúc sau thuế đánh theo đất nhiều hạng:  đất tốt, đất xấu hay đất   trồng lúa một  vụ  hay hai  vụ  mà đánh thuế.

Thuế đinh :    Thuế đinh cũng gọi là sưu:   Thuế này đánh  theo đầu người và số ruộng  đất người ta có; người nghèo không có đất được miễn thuế đinh.  Hộ tịch  được  điều chỉnh  mỗi vài năm( tiểu điều 3 năm,  đại  điển  6 năm hay đại tu mỗi năm năm, tiều tu hằng năm).

Thuế thân:    Thuế thân đánh vào đầu nông dân.

Thuế chuyên ngành:   Các người  làm công nghệ hay thương mãi không đóng thuế thân  mà chịu thuế  chuyên ngành (10 công nghệ gọi là cuộc, chia nhau đóng thuế rất cao; ngoại quốc Hoa Kiều cũng phải chiụ  thuế cao).

Tiền -tệ

Các vua Chúa ngày xưa đúc tiền  bạc tiền đồng . Cuối đời Trần, có tiền kẽm, nhưng tiền này không thông dụng . Nhà Hồ  in tiền giấy, dân không thích, không tin tưởng.