Xã hội Việt |
||
Xã hội Việt thượng tầng là quốc gia, hạ tầng cơ sở là làng xã, nòng cốt là gia đình. Giờ đây mời quí vị tìm hiểu làng xã hạ tầng xã hội Việt.
Sự ra đời của Làng Xã Việt
Làng hình thành lên từ 3 yếu tố của 1 thực thể không thể tách rời đó là người trồng lúa, nghề trồng lúa và làng trồng lúa mà bây giờ được gọi là “Tam Nông”, Theo nhiều sử sách truyền lại, làng Việt có từ thời Văn Lang, Sau khi biết trồng cấy lúa nước, người Việt cổ chấm dứt lối sống du canh du cư, quần cư tại địa điểm nhất định. Ðịa điểm đó cao ráo, thuận lợi cho việc ăn ở, canh điền, bảo vệ cư dân trước thiên nhiên và thú dữ. Ðịa điểm quần cư này dần hình thành trại, ấp, trang, thôn. Cư dân ăn ở theo từng xóm, nhiều xóm thành làng, để cùng nhau chống chọi với thiên nhiên hà khắc, chống giặc ngoại xâm và chống cướp bóc, chống bọn đạo tặc.. Khoảng từ thế kỷ XV trở đi việc chống thú dữ không là nhiệm vụ chủ yếu,Từ đó làng được tổ chức chặt chẽ thành đơn vị tổ chức quy củ, mỗi xóm có cổng xóm. Làng có lũy tre xanh bao bọc quanh, có hào nước sâu ngăn cách và bảo vệ, đường làng ngõ xóm trở thành một hệ thống giao thông liên hợp thuận tiện.
Cổng làng: Cổng làng chính là cửa ngõ của làng xóm. Vật liệu xây dựng của Cổng làng thường là gạch, gỗ, ngói, đá ong,...Những Cổng làng có quy mô thường có cửa đóng then cài và bảo vệ nghiêm ngặt, kết hợp với lũy tre làm thành pháo đài kiên cố chống lại glitch giã, cướp bóc hay ngoại xâm. Ðầu làng thường trồng cây đa như một biểu tượng thiêng liêng của một sức sống vững bền che chở cho dân làng, Ðầu làng là vị trí vừa cao siêu vừa linh ứng dành xây dựng đình, chùa. Cây đa gắn bó với ngôi đình càng t ạo ra biểu tượng thiêng liêng :
"Cây đa rụng lá đầy đình Hình ảnh cổng làng, cây đa, giếng nước, sân đình, chùa chiền, ngõ lối làng Việt cổ bỗng chợt hiện về trong tâm thức, lòng ta cũng rung lên những xúc cảm xốn xang, xao xuyến.
Nhà ở của dân làng
Nhà ở
dân l
àng
đã trải qua một quá trình chuyển biến từ nhà sàn đến
nhà nền đất. Nhà nền đất vùng xuôi có kết cấu khung tre hay
gỗ, thường làm vách và lợp bằng
tranh,
rạ hay
lá
dừa nước; nếu là kết
cấu khung gỗ loại tốt lại thường được lợp bằng
ngói, tường bao quanh
bằng
gạch với vì kèo gỗ.
Khuôn viên nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ (nhà ngang, nhà
bếp) và chuồng gia súc cùng sân, vườn,
ao,
giếng hoặc bể nước và
hàng rào, tường vây quanh, cổng ngõ. Nhà chính thường có số gian
lẻ (1, 3 hay 5) cùng với 1 hoặc 2 chái. Nhà chính thường quay về
hướng nam, hướng này có thể đón ánh nắng khi trời lạnh,
đón được gió mát để giải nồng.
Để trở thành dân “chính cư” của làng ít nhất phải thoả mãn hai điều kiện: đã cư trú ít nhất 3-5 đời và có chút điền sản. Điều kiện thứ hai có thể là do đặc điểm của xã hội tiểu nông mà quyền tư hữu đối với một mảnh đất nhỏ để trồng trọt là thỏa mãn điều kiện làm người. Điều kiện thứ nhất phải chăng là bản năng tự vệ của từng cộng đồng trước sự hạn hẹp đất đai canh tác và luôn đương đầu với áp lực dân số?
Làng Việt phát triển và quá trình phát triển của nó
Một thời gian rất dài làng Việt được tổ chức sản xuất nông nghiệp mà chủ đạo là cấy lúa nước, chỉ một số khu vực Trung du và miền núi còn kết hợp với săn bắt thú rừng và hái quả.. Dầu vậy, làng Việt phát triển theo tình trạng hình thái và trình độ phát triển nông nghiệp. Đến thời Lý, làng Việt đã rất phát triển. Làng ngày một lớn hơn, đồng bộ hơn
Cuộc sống dân cư thay đổi, hàng ngày con người không chỉ cần đến
ăn, ở, mặc, đi lại, cần những công cụ sản xuất... mà còn phát
sinh nhiều nhu cầu mới phục vụ cuộc sống. Thời gian đầu, mỗi gia
đình phải tự xoay sở, song dần dần một bộ phận cư dân tách ra
chuyên lo cung cấp cho cộng đồng trong làng, hình thành một đội
ngũ thợ thủ công, hình thành nơi trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên
thời kỳ này tổ chức làng vẫn lấy sản xuất nông nghiệp là chính,
tất nhiên ngoài nhà ở thuần túy, nhà ở kết hợp nghề thủ công
nghiệp đã xuất hiện một số xưởng sản xuất quy mô nhỏ lẻ và chợ
quê cũng ra đời.
Chợ Làng : Chợ Làng là nơi mua bán, trao đổi nông sản, hàng hóa... giữa những người trong Làng. Chợ Làng thông thường có một quán chính (5 gian) và nhiều quán nhỏ khác Xã là làng có một cơ quan hành chánh thi hành những chỉ thị từ chính quyền trung ương. Xã và làng đều cùng chỉ một đối tượng… Đối tượng này được gọi là xã khi bàn đến nhiệm vụ thi hành những chỉ thị từ guồng máy chính quyền trung ương trở xuống. Đối tượng này được gọi là làng khi bàn đến những chuyện làm ăn, bà con lối xóm.vv.. Sau này, hai từ ngữ Xã và Làng được người ta dùng lẫn lộn không phân biệt. Lai lịch một xã như sau:
Năm
1242, dưới
triều đại nhà Trần,
nước Việt
chia làm 12 lộ (tỉnh).
Mỗi lộ chia ra làm nhiều xã. Ðứng
đầu mỗi lộ là chánh, phó an phủ sứ. Hai chức này đặt ra
từ triều Lý. Còn mỗi xã,
nhà
vua
bổ
xã quan trực tiếp cai trị dân làng gọi là xã chánh và xã giám,
tức như lý trưởng và phó lý trưởng trước đây. Các
xã
Việt-Nam ngay từ thời Lý, thời Trần đã
có
hương ước phân minh quy định tổ chức cuộc sống của cả cộng đồng chặt chẽ từ lễ tiết,,
ngôi thứ, đến sinh hoạt học tập và thưởng phạt làm tiêu chuẩn
sống.,
Đặc biệt từ thời Trần, do sự hiện diện của các xã quan mà quy
chế ngôi thứ, tôn ti trật tự được xếp đặt tại các làng xã.
Chỗ ngồi ở đây cũng quý không kém gì chỗ đứng ở sân chầu triều
đình; thứ bậc trên dưới rồi đến lễ nghi, tế tự cũng được rập
theo khuôn mẫu, kiểu cách của triều đình. Ðến khi nhà nước không bổ xã quan về cai trị nữa, dân làng tự bầu lấy người đại diện ra làm xã trưởng, để một đằng giao thiệp với quan trên, một đằng gánh vác, giải quyết việc làng xã cùng với các vị hương chức, các phe giáp, đoàn thể trong làng xã. Theo quy lệ này thì gần như mỗi làng trở thành một đơn vị hành chánh tự-trị, một nước nhỏ trong một nước lớn, hay một nước cộng hòa nhỏ trong một nước quân chủ lớn. Phép vua lan tỏa ra khắp nước, nhưng khi đụng đến lũy tre xanh của cổng làng, phải ngưng lại để làng xem có thích hợp để đón nhận hay không. Vua xa, làng gần nên phép vua thua lệ làng.
Trong xã đã có quan do nhà vua bổ về cai trị thì phải có công đường để làm nơi hội họp bàn việc quan, việc làng và dùng làm công quán để vua quan, quí khách dừng chân lưu trú, Công đường này chính là thứ dịch đình được vua quan thiết lập tại khắp các nơi trong quá khứ , vì vậy dịch đình từ nay trở thành Ðình Làng.Mỗi làng một phong tục tập quán riêng mang bản sắc văn hoá hoàn toàn khác biệt, vì vậy mỗi làng có một ngôi đình độc đáo mà không giống bất cứ nơi nào. Nơi đây được nối với con đường chính của làng đi ra đường cái quan và có các tuyến đường giao thông đi về từng ngõ xóm và đi ra các làng xã khác. . 1- Lịch sử Ðình Theo ngữ nguyên trong Trung Văn Ðại Tự Ðiển, Ðình là nơi người ta dừng lại tụ tập.Theo sách Thuyết Văn, Ðình là chổ cư dân tới yên ổn.Theo học giả Nhân Sư Cổ, Ðình là quán cho hành khách dừng bước nghỉ ngơi. Ngày xưa ở Việt-Nam cũng như ở Trung-Hoa hay ở các nước Á-Ðông, cách vận tải còn thô sơ, muốn đi từ nơi này sang nơi khác, trước hết người ta đi bộ, rồi đi cáng, đi võng, đi kiệu do mấy người khiêng hoặc đi ngựa, đi xe do một người đẩy. Cách vận chuyển đã phiền phức, khó nhọc, đường xá lại gập ghềnh khó đi. Trong xứ đầy núi rừng hiểm trở nên cuộc hành trình nào cũng mất gấp mười gấp trăm lần thì giờ so với ngày nay và người ta thường phải ngủ đỗ lại dọc đường. Dọc đường trời tối mà không gặp thôn cư, làng mạc nào thì dù là Thiên Tử cũng vẫn bị dãi tuyết dầm sương. Vì vậy, dịch đình được tạo ra để đem lại tiện nghi trên đường bộ kể từ thời Bắc thuộc. Tới khi độc lập, các triều đại Việt-Nam vẫn cứ tạo dựng những đình trạm như vậy. Vua sai lập ở bên các quan lộ hay đường cái quan những cái quán trú chân, phòng khi vua quan đi tuần du, giữa đường trời tối. Việc lập quán dọc đường đó có định lệ hẳn hoi. Cứ năm dặm gọi là đoản đình, lập một quán nhỏ; mười dặm gọi là trường đình, lập một quán to. Các quán ( Ðình ) này hầu hết đều kiến thiết chắc chắn, tường gạch, mái ngói và làm theo một kiểu giống nhau. Kiểu này do vua quan bắt phải làm theo hình vuông, nóc có bốn mái. Có Ðình được tổ chức như hành cung để tiếp rước nhà vua. Có Ðình sắm sẳn hương án, tàn lọng để phòng khi phụng mệnh sắc chỉ nhà vua, để bái vọng xa giá vua hay quan khâm mạng tuần du qua. Trên chính tẩm đình, một tấm hoành phi, chạm trổ rất công phu, sơn son thếp vàng rực rỡ, khắc bốn chữ lớn '' Thánh cung vạn tuế '' để chúc tụng nhà vua. Theo sử liệu ( Cương-Mục, Tiêu-Án Việt-Sử ), thì khi xưa ở nhiều địa phương, có những ngôi nhà công cộng, quét vôi trắng, để cho người đi đường vào nghỉ ngơi, gọi là dịch đình. Các cáo thị sau khi được tuyên đọc, đều được dán ở Ðình. Các Ðình đó nếu cứ bỏ hoang ở dọc đường, không trông nom, quét tước và sửa chửa, giữ gìn thì chẳng mấy chốc sẽ thành nơi trú ẩn của giặc cướp, nơi hẹn hò của rêu cỏ, bẩn thỉu và là cái mồi của thời tiết và thời gian. Vì thế, vua chúa Việt đặt ra một chức giao cho một người dân sở tại để trông nom. Chức ấy gọi là đình trưởng. Tuy phận sự của viên đình trưởng cốt yếu là ở sự trông nom giữ gìn ngôi đình, song cũng thường rất là vất vả, bận rộn. Khi có vua, quan, quí khách đến nghỉ ngơi, lưu trú tại Ðình thì đình truởng phải tổ chức canh phòng để ngăn ngừa trộm cướp, phải mua sắm thức ăn, thức uống, dầu đèn... Tóm lại phải phục dịch như có quí khách đến nhà mình vậy. Ðể đến bù vào công đó, các viên đình trưởng được hưởng những quyền lợi như có quyền sai phái và trừng giới dân đinh thuộc Ðình mình tức là trong vòng mười dặm, được quyền cày ruộng công hay được lương bổng v.v... Chức đình trưởng cũng tương tự như chức xã chánh, xã trưởng hay lý trưởng. Bãy giờ trong văn chương người ta thường gọi bóng lý trưởng là thập lý hầu, nghĩa là được hầu trong mười dặm, cũng là vì xưa, đình trưởng có quyền hành trong vòng mười dặm.
![]() 2-Vị trí của đình làng
Hướng đình Hướng được xác định theo phong thuỷ. Đình làng thường được xây dựng trên những khoảng đất cao, quay mặt về những khúc sông hoặc hồ nước, đảm bảo thế "tụ thủy, tụ linh, tụ phúc". Trong đình Một chiếc trống cái được đặt để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng, của nước. Sàn đình Ðình cổ thường có sàn gỗ để làm chỗ cho dân làng ngồi hội họp. Sàn làm phẳng hoặc cao dần lên chênh nhau dăm mươi phân. Khi ngồi thì giải chiếu, chỗ ngồi được xếp theo thứ tự, ngôi thứ nên mệnh danh là '' chiếu trên, chiếu dưới ''. Ngày xưa, người ta hay ngồi xếp bằng tròn và ngồi trên sàn hay bục, như vậy được nhiều chỗ hơn là ngồi ghế; vả lại nếu cần ngả lưng như Ðình là trạm quán thì cũng tiện lợi, khỏi cần giường nằm. Có lẽ vì vậy mà cái Ðình làng vẫn tiếp tục truyền thống nhà sàn của người Lạc-Việt và của các dân tộc Ðông-Nam-Á miền nhiệt đới gió mùa. Dù sao thì cái Ðình làng với cái sàn cũng là một kiến trúc khác biệt với kiến trúc và cái Ðình làng Trung-Hoa. Trước đình Sân đình được lát gạch Bát Tràng. Sân Ðình rất cần thiết vào những dịp hội hè đình đám; là nơi để chồng kiệu; để sửa soạn long đình; sắp đặt đám rước; để dựng sân khấu hát chèo, hát tuồng, đánh cờ, cùng biểu diễn các trò vui. Ngày thường, sân và bãi trước Ðình dùng để họp chợ, hai giải vũ để làm lớp hương học.Trước Sân đình có hai cột đồng trụ cao vút, trên đỉnh được tạc hình con nghê lúc nào cũng như nhe răng cười.
Trước sân thường có một cái ao hay giếng nước để làm minh
đường tụ thủy theo luật phong thủy. Cái ao
trồng sen
hương thơm ngào ngạt.
tạo không gian thoáng đạt và linh
thiêng Vào dịp hội hè thì ao là nơi tổ chức các cuộc vui như leo dây, múa rối, bắt vịt, đốt pháo bông. Xung quanh Ðình trồng cây; cây đa, cây gạo, cây bàng, cây đại...Phía trước xây cổng chính và cổng bên, cổng nách. Cổng chính xây hai cây trụ biểu gách hoặc có mái hoặc không; cổng bên, cổng nách nhỏ hơn thường xây cuốn, đắp mái. |
||
3- Ðình làng có nhiều Chức năng
- Ðình làng một cơ sở văn hóa sinh hoạt của xã hội Việt-Nam: vốn rất cần cho cuộc sống nông thôn muốn có sự nương tựa, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
- Ðình
làng
một cơ sở tế thần,
a- Ðình là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng làng Đình là trung tâm đình đám cho mỗi gia đình của làng khi có những việc vui, buồn, trọng đại vào những dịp như '' vào làng '' cho con trai, nộp cheo, nộp cưới, khao vọng, ma chay, mua nhiêu, mua xã, vào hàng quan viên, lên đinh, lên lão. v.v.. bao đời nay. Quả thật,đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt,
''.. Qua Ðình ghé nón trông Ðình, Đình là trung tâm văn nghệ cho cả làng, nơi tổ chức lễ hội làng truyền thống với các tiết mục văn nghệ, Trong hội . có đủ mọi trò chơi của dân tộc được diễn ra ở sân đình, chăngn hạn, diễn lại nhiều trò như giết giải cứu công chúa, hoặc gần với sự tích, gần với nông nghiệp (Vua Hùng đi săn),. dân làng được xem trò chơi dân gian: đu quay, đấu vật, chọi gà, đánh đu, kéo co, thi thổi cơm Hội đình trở thành hội diễn ca múa nhạc dân gian,.... Trong những ngày hội ,Già, trẻ, gái, trai ăn mặc những bộ quần áo đẹp nhất tụ tập ở ngoài đình, quanh đình xem hát chèo, hát tuồng, xiếc, dân ca, dân vũ... Sân đình đầy ắp tiếng nói, tiếng cười . Giữa cảnh trí thiên nhiên khoáng đạt, ấm áp và thân thuộc ấy, Lễ hội làng đem lại những cuộc vui chung t ạo ra niềm vui cho mọi người,
b- Ðình là nơi thờ thần Thần Thành hoàng
Dân ta tin rằng đất có thổ công, sông có hà bá, núi có sơn thần,
làng có thành hoàng. Dân phải thờ phụng thần linh, để các ngài
phù hộ độ trì cho được bình an, khỏa mạnh, may mắn, tốt lành ...Tục thờ thành hoàng có từ thời Hán thuộc thế kỷ II trước
công-nguyên. Nguyên thủy thành hoàng được thờ ở miếu, ở nghè (
nơi miếu có nhiều cây cối bao quanh ). Khi làng vào đám, mở hội,
mới rước về Ðình. Về sau vua đặt lệ phong các đại thần khi thất
lộc được làm phúc thần, cho thờ bằng lọng vàng trong Ðình làng.
Làng nào không có phúc thần thì xin phép hoặc tự ý tìm một thần
linh, hoặc đế vương, trung thần, liệt nữ đời trước làm thành
hoàng. Kể từ đó ( khoảng thế kỷ XVI..? ) mới có lệ thờ thành
hoàng thường trực ở Ðình và Ðình này gọi là Tử Ðình ( đình đền
thờ hay đình miếu ).
c- Ðình là trung tâm hành chính. Ðình tồn tại trên công thổ, công điền của làng.Trước kia Ðình Làng là công quán, nơi chính thức để đón vua,quan tiếp xúc với dân làng; đồng thời là dịch đình cho khách bộ hành dừng lại nghỉ ngơi.Nhưng về sau này Ðình Làng là nơi dán cáo thị của làng và của nhà nước khi đã tuyên đọc, Có những Ðình treo bảng '' Mỹ Tục Khả Phong '' của vua ban vì làng có những tục lệ hay. Kế tiếp, Ðình Làng cũng trở thành tòa án, nơi dàn xếp những sự tranh chấp hoặc xử kiện của dân làng: nơi thi hành thưởng phạt, tuyên dương những khen thưởng của làng hay của triều đình. Rồi Ðình Làng là nhà công để hương chức, hàng phe, hàng giáp bàn việc làng, việc nước. Nói theo từ ngữ ngày nay , đình làng là trung tâm hành chính, quản trị phục vụ cho mọi hoạt động thuộc về cộng đồng làng xã; là nơi làm việc của Hội đồng kỳ mục (trong thời phong kiến) .. Người từ 18 tuổi trở lên được nhận ruộng công về làm và nộp hoa lợi cho đình hoạt động. Mỗi khi ra đình phân biệt mâm ăn và chiếu ngồi, chia phần "một miếng giữa làng hơn một sàng só bếp", "một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần"... Như vậy, đình làng diễn ra sự phân chia đẳng cấp rất chặt chẽ, trọng tuổi hơn trọng chức sắc, là nơi quyết định số phận kinh tế, chính trị và tâm tư tình cảm của người dân. Ðình do đó là hình ảnh quê-hương, là tượng trưng cho nếp sống đặc-thù của xã-hội Việt-Nam: một xã hội được tổ chức gồm những đơn vị hành chánh gần như tự trị nằm trong một quốc-gia. Ðó là những làng xã tự cai trị, khu xử với nhau theo luật lệ riêng, phong tục tập quán riêng biệt. Tóm lại về 3 chức năng của Đình làng Ðình Làng là nơi diễn ra mọi hoạt động của làng xã Việt Nam dưới thời phong kiến. đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam. Ðình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi "cân bằng" phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng, nhất là về tín ngưỡng, nơi để thờ thần Thành Hoàng làng người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Nhìn quanh đình làng, ta sẽ thấy lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, ''uống nước nhớ nguồn'' của người Việt Nam. Nhìn chung, văn hoá đình Việt Nam có tính hoàn toàn độc lập của một cộng đồng xã hội riêng biệt. Nó là một nét văn hóa riêng nằm trong nền văn hóa tổng hợp dân tộc Việt nhằm phục vụ an ninh và hạnh phúc cho dòng giống dân tộc , nhằm tôn thờ những người có công với xã hội, và những anh hùng dựng nước và bảo vệ đất nước. Ðình làng là nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội của làng quê qua bao thế kỷ. Nét về nó không hề phai nhạt trong cuộc sống của người Việt Nam hôm nay Ðình làng theo ta vào cuộc sống mới . Chính vì vậy, Ðình làng trở thành một nơi thân quen gần gũi, là nơi che chở, là cuộc sống của những người nông dân Việt Nam. Ðình làng gợi nhớ một di tích cổ kính thân tình. Ðình làng rộng mở để chờ đón bất cứ người con nào của làng. Với ý nghĩa như thế, đình làng Việt Nam chính là nơi không phân biệt giàu sang nghèo hèn, là nơi thể hiện rõ nhất vǎn hóa hiện thực của đời sống nhân dân. Ðình làng là một mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả sáng trong những áng thơ văn Hôm qua tát nước đầu đình Để quên chiếc áo trên cành hoa sen |
4- Ðình làng: Kiến trúc & Điêu khắc -V ề KiếnTrúc thì:
a-Hướng đình Địa điểm của đình khác đền chùa. Trong khi chùa và đền chuộng địa điểm tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất lối thì đình làng chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế "tụ thủy" vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng. Phía trước đình làng thường có sân rộng, hồ nước cây xanh tạo cảnh quan. . b-Số gian Trước đây đình thường chỉ có 3 gian và 2 chái. Gian giữa không có sạp, trong gian thờ Thành hoàng. Cuối thế kỷ 17 từ gian giữa và kéo dài về sau gọi là chuôi vồ, tạo cho đình làng mang kiểu chữ Đinh. Kiến trúc đình làng có thể chỉ 5-7 gian, hoặc có thể có tới 9 gian (như ở đình làng Đình Bảng. Đây cũng là số gian lớn nhất mà kiến trúc cổ Việt Nam có được.) c-Số mái Ðình làng dáng dấp bệ vệ, uy nghi: Mái tỏa rộng để che mưa nắng, thường phổ biến loại bốn mái, có khi cũng phát triển thêm loại tám mái (kiểu chồng diêm) do những ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa về sau này. Ðình có khi làm theo kiểu hai mái bít đốc. Mái đình lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi xây bít đốc hoặc làm bốn góc đầu đao cong. mà ngói có nơi to như một cái khay cỡ 20x30cm, dầy tới 4, 5cm và chịu được sức gió bão của miền nhiệt đới. Ðộ dốc của mái được tính theo công thức '' thượng tam hạ tứ '' khoảng 33 độ rất phổ biến trong kiến trúc nhà gỗ Việt-Nam, nhưng ở gần miền biển thì được tính dốc hơn |
||
d-Cột , vì kèo Ðình là một kiến trúc to lớn, đồ sộ nhất làng, cột mập chắc. Đình làng được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Bốn cột cái gian chính có khi là một cây gỗ rừng được bào chuốt, bụng to phình hàng hai vòng tay ôm. Ðình cổ được thực hiện vào lúc cây rừng còn nhiều, lại cố ý dựng lên để tồn tại với thời gian, nên vật liệu được chọn toàn những loại bền tốt, cột kèo to chắc, gỗ chồng chất đến dư thừa, nhưng ngụ ý là để chịu đựng được sức nặng của tòa mái to rộng, Tổng cộng như vậy, Ðình có tất cả là 48 cây cột đặt trên đá tảng. Toàn thể bộ giàn trò được cấu trúc ngay chỉnh, vững vàng. Vì kèo được làm theo kiểu '' chồng rường giá chiêng '' và '' thượng rường hạ kẻ '' hoặc có khi là '' thượng giá chiêng hạ kẻ chuyền'' ở những gian bên và cốn ( ván dầy có chạm khắc ), được thay thế cho bộ chồng rường bên trên xà nách. e-Tường vách Tường đình xây bằng gạch. g-Hậu cung Hậu cung là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng. Trong Hậu cung có Cung cấm, là nơi đặt bài vị, sắc phong của vị thần làng. Xung quanh Hậu cung thường được bít kín bằng ván gỗ, tạo không khí uy nghiêm và linh thiêng. Cuối thế kỷ 17, nhất là thế kỷ 19, đình làng được bổ sung tòa tiền tế. Kể từ khi thành hoàng được thờ thường trực tại Ðình, thì mới xây thêm hậu cung và kể từ đó mới xuất hiện những kiểu chữ đinh, chữ công.
h- Đại đình (đại bái), Không gian chủ yếu vẫn là tòa đại đình (đại bái), là nơi diễn ra các hoạt động hội họp, ăn khao, khao vọng, phạt vạ... của dân làng. Đại đình bao giờ cũng là tòa nhà lớn nhất trong quần thể, bề thế, trang trọng. Đại đình ở các đình cổ thường có sàn lát ván, cao từ 60 đến 80cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ bậc cho những người ngồi ở Đại đình. Hầu hết tòa đại bái ( đại đình ) nào cũng làm năm gian rộng, cộng hai gian hẹp theo chiều ngang dài: một gian rộng, hai gian trung bình cộng hai gian hẹp theo chiều sâu. Ở những tòa Đại đình của các ngôi đình chưa có Hậu cung, bàn thờ Thành hoàng được đặt ở chính gian giữa Đại đình, gian này không lát ván sàn và có tên là "Lòng thuyền".Dần dần những ngôi đình làng phát triển ở miền núi, vùng người Tày, người Nùng. Trải qua thời gian, đình làng dần dần thiên di vào miền Trung, nhất là Bắc Trung Bộ:. Nhưng càng vào Nam thì Đình càng ít và đến Nam Bộ, ngôi đình chỉ còn là ngôi đền
k--Mặt bằng Ðình được kiến tạo:
- kiểu chữ nhất: -chữ công: Ðình kiểu chữ công mái trước, mái sau đều làm đao và hậu cung được làm thành một nếp nhà ngang, song hành với đại đình hay đại bái, có nếp nhà dọc gọi là '' ống muống '' để nối hai dẫy ngang vào nhau tạo thành kiểu chữ công. Ðại bái là nơi tế lễ, ống muống là nơi trần thiết đồ thờ như hương án, tàn lọng, lộ bộ, sập thờ, cùng các đồ bày bên trên như bát hương, bình hương, bình hoa cây nến, giá văn, bồ đài, đài rượu, mâm bồng, giá gươm, kỷ viết. Hai bên và trước mặt có giá cắm tàn lọng, lộ bộ, cờ quạt, hạc chầu. Trong cung cấm thường làm ba gian ngắn và nhỏ hơn đại bái nhiều, có ngai ỷ, bài vị hoặc tượng thần bày trên bệ xây hoặc đặt trên sàn gỗ cao. -bình đồ chữ đinh, mái chữ công: Ðình chữ đinh, mái chữ công phát triển vào thế kỷ 17, 18. Kiểu này khá phổ thông khi hậu cung không cần làm to rộng lắm mà mái trông vẫn đủ vẻ uy nghi, duyên dáng như đình chữ công. Bên dưới tường bọc hậu cung thường được xây ra sát chân tầu bằng gạch Bát-tràng để trần, bắt mạch lớn, trông rất tề chỉnh. Trên mặt tường gạch màu gan gà, nổi lên một khung cửa sổ trắng, trổ hoa văn chữ thập, kim tiền hay đắp một chữ thọ, một bông hoa thị ở hai bên hông cung thờ hoặc chỉ là một khung bảng, trong lòng đựng gạch đứng thành chấn song trổ ở phía trên cao mặt tường sau lưng. Hai bên hậu cung xây tường hoa, quây bọc thành một vườn có trồng những cây cảnh như thiên tuế, mẫu đơn, đại... cành cong queo, sù sì vươn lên, hòa nét màu thiên nhiên cùng góc đao, ngói móc tạo thành bức tranh cổ kính.
Vì không gian cảnh quan, kiến trúc đình làng thường phát triển cả phía sau, phía trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu cung, ống muỗng, tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu, tam quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình,...Bình đồ toàn thể là một hình chữ nhật đứng, gồm có nhiều nếp nhà song hành, xếp thong dong theo chiều sâu. Kể từ phía sau, trước hết có nhà hội đồng, rồi cách một sân kín, hai bên dựng hai nhà cầu bốn mái, đến chính diện là nơi thờ thần. Tiếp liền trước mặt cung thờ tại chính điện là nhà võ ca, tức là nơi diễn trò hát Bộ. Sân khấu ở đây dựng đối diện với cung thờ, còn hai bên dựng những cấp bậc bằng gỗ để làm chổ cho dân làng ngồi coi.. Cung thờ được trang trí, đục chạm hoa lá, chim muông, sơn thếp rực rỡ. Trên là hoành phi, dưới cửa võng, cột treo câu đối. Cửa cung sáu cánh đều chạm thủng, cột có nơi chạm nổi rồng cuốn quanh, cốn bên trên chạm thủy ba, cá hóa long. Cung thờ và võ ca có hàng ba ( hàng hiên ) chạy dọc quanh ba mặt, còn bên trên là ba tầng mái ngói ống chồng chất, và trên mỗi thành phần của ngôi Ðình lại nhô lên một lầu mái, nóc đắp bờ cao, triện cuốn và gắng rồng chầu hỏa châu bằng men sứ. Ðầu đốc những lầu mái xây tam cấp vành uốn cong và những cổ diêm chạy dài giữa những tầng mái được trang trí bằng những hình đáp, vẽ, màu sắc rực rỡ, đường nét linh hoạt lộ vẻ vui tươi, sống động.
Vì không gian cảnh quan, kiến trúc đình làng thường phát triển cả phía sau, phía trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu cung, ống muỗng, tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu, tam quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình,...Bình đồ toàn thể là một hình chữ nhật đứng, gồm có nhiều nếp nhà song hành, xếp thong dong theo chiều sâu. Kể từ phía sau, trước hết có nhà hội đồng, rồi cách một sân kín, hai bên dựng hai nhà cầu bốn mái, đến chính diện là nơi thờ thần. Tiếp liền trước mặt cung thờ tại chính điện là nhà võ ca, tức là nơi diễn trò hát Bộ. Sân khấu ở đây dựng đối diện với cung thờ, còn hai bên dựng những cấp bậc bằng gỗ để làm chổ cho dân làng ngồi coi.. Cung thờ được trang trí, đục chạm hoa lá, chim muông, sơn thếp rực rỡ. Trên là hoành phi, dưới cửa võng, cột treo câu đối. Cửa cung sáu cánh đều chạm thủng, cột có nơi chạm nổi rồng cuốn quanh, cốn bên trên chạm thủy ba, cá hóa long. Cung thờ và võ ca có hàng ba ( hàng hiên ) chạy dọc quanh ba mặt, còn bên trên là ba tầng mái ngói ống chồng chất, và trên mỗi thành phần của ngôi Ðình lại nhô lên một lầu mái, nóc đắp bờ cao, triện cuốn và gắng rồng chầu hỏa châu bằng men sứ. Ðầu đốc những lầu mái xây tam cấp vành uốn cong và những cổ diêm chạy dài giữa những tầng mái được trang trí bằng những hình đáp, vẽ, màu sắc rực rỡ, đường nét linh hoạt lộ vẻ vui tươi, sống động.
Vì không gian cảnh quan, kiến trúc đình làng thường phát triển cả phía sau, phía trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu cung, ống muỗng, tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu, tam quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình,...Bình đồ toàn thể là một hình chữ nhật đứng, gồm có nhiều nếp nhà song hành, xếp thong dong theo chiều sâu. Kể từ phía sau, trước hết có nhà hội đồng, rồi cách một sân kín, hai bên dựng hai nhà cầu bốn mái, đến chính diện là nơi thờ thần. Tiếp liền trước mặt cung thờ tại chính điện là nhà võ ca, tức là nơi diễn trò hát Bộ. Sân khấu ở đây dựng đối diện với cung thờ, còn hai bên dựng những cấp bậc bằng gỗ để làm chổ cho dân làng ngồi coi.. Cung thờ được trang trí, đục chạm hoa lá, chim muông, sơn thếp rực rỡ. Trên là hoành phi, dưới cửa võng, cột treo câu đối. Cửa cung sáu cánh đều chạm thủng, cột có nơi chạm nổi rồng cuốn quanh, cốn bên trên chạm thủy ba, cá hóa long. Cung thờ và võ ca có hàng ba ( hàng hiên ) chạy dọc quanh ba mặt, còn bên trên là ba tầng mái ngói ống chồng chất, và trên mỗi thành phần của ngôi Ðình lại nhô lên một lầu mái, nóc đắp bờ cao, triện cuốn và gắng rồng chầu hỏa châu bằng men sứ. Ðầu đốc những lầu mái xây tam cấp vành uốn cong và những cổ diêm chạy dài giữa những tầng mái được trang trí bằng những hình đáp, vẽ, màu sắc rực rỡ, đường nét linh hoạt lộ vẻ vui tươi, sống động.
V ề Điêu Khắc thì: Đình làng còn là kho tàng hết sức giá trị về mặt điêu khắc dân gian. Trên các vì kèo, tất cả các đầu bẩy, đầu dư, đố, xà kẻ, ván gió, ván nong (dong)... là nơi các nghệ sĩ điêu khắc dân gian chạm khắc các đề tài tái hiện cuộc sống và lao động của con người, cảnh sắc thiên nhiên giàu tính dân gian và phong phú, sinh động. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình.Mặt tiền bàn thờ hay cung thờ bao giờ cũng được trang hoàng rực rỡ hơn cả: suốt chiều dài của gian chính tẩm và từ sát mái trở xuống tới 2 hoặc 3 mét, những hoành phi, ô học gồm nhiều tầng sâu và cửa võng được trang trí bằng những hình rồng, mây, nghê, hạc, mây lửa, chữ triện, đại tự, dây hoa, mai, trúc v.v.., đục chạm công phu, tỉ mỉ và sơn thếp vàng son huy hoàng. Bộ giàn trò ( sườn nhà ) thì trừ các cột và hoành rui ra, các thành phần khác hầu hết được chạm trổ, nhiều nhất ở những tấm riềm gió ( thượng diệp, hạ diệp ), cốn, lòng giá chiêng, kẻ hiên, đầu bẩy. Ở gian chính tẩm, đoạn đầu kèo xuyên qua cột cái được chạm soi thành một đầu rồng có râu tóc tua ra đằng sau, chân đạp vào cột, gọi là đầu dư. Ðầu dư luôn luôn được thi công thành những tác phẩm điêu khắc gỗ công phu và đặc sắc. |
||
Nhận xét chung về nghệ thuật điêu khắc trang trí các ngôi Ðình Người ta có thể nói rằng từ thế kỷ thứ 17 trở về trước phong cách có vẻ tự nhiên, sống động và có tính cách dân gian hơn; thế kỷ thứ 18 thì hoàn chỉnh, trang trọng hơn. Những ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thực, hay gần gũi với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi. Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu.
Đình miền Bắc thì điêu khắc trang trí đầy chi tiết tinh tế, nhưng cũng đầy tính khoa học kiến trúc. Nói về đường nét, đình là nơi hội tụ những mô típ trang trí tuyệt hảo, gồm nhiều xu hướng: hiện thực, cách điệu và đồ họa. Ví dụ như: ở đình Phù Lão (Bắc Giang) có hình điêu khắc phụ nữ khỏa thân đùa với rồng, gối đầu lên mình rồng. Đình miền Trung thì điêu khắc trang trí trên kết cấu gỗ: dân làng có thể chạm trổ chi tiết đầu rồng, đuôi rồng ở đầu đuôi kèo, chạm hoa và đường chỉ xuyên tâm ở thanh xà và đòn tay. Các ngôi đình miền Trung phát triển hình thức trang trí bằng cách đắp nổi vôi vữa và gắn các mảnh sành sứ lên phần ngoài của kiến trúc. Thường thì ở nóc mái và các đường gờ mái, người ta trang trí hình tứ linh. Ở hai đầu hồi thường được trang trí hình dơi xòe cánh bằng sành sứ để cầu phúc. Đây là cách trang trí phổ biến đời Nguyễn. Ðình miền Nam thì điêu khắc trang trí trên bốn cột đình thường hình rồng, nên gọi là "long trụ". Nhiều nơi, long trụ chạm rời bên ngoài ốp vào, nhưng cũng có nơi long trụ được trổ một khối nguyên... Ngoài ra, đình Nam Bộ thường có các bao lam trước điện thờ, được chạm trổ rất tinh vi, đề tài thường là tứ linh, cá hóa long, rồng, hổ... Đình làng miền Nam thường mang nhiều họa tiết, có màu sắc rực rỡ hơn so với những gam màu trầm và những họa tiết tối giản hơn Đình làng miền Bắc", |