Ải Nam Quan là của người Việt Nam

 

http://baomai.blogspot.com/

Có lẽ không ai trong chúng ta, những người từng học Tiểu Học trước 1954 đều thuộc ḷng câu: “Giang sơn ta chạy dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu” và vẫn mang trong đầu h́nh ảnh một Ải Nam Quan với hai giai thoại đặc biệt về cửa Ải này:

Mạc Đĩnh Chi 1280 - 1346

image

1-Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên. V́ đường gập ghềnh, nên đến cửa khẩu trễ, quân canh gác bắt phải chờ đến sáng hôm sau. Thấy sứ bộ yêu cầu mở cửa thành, viên quan phụ trách canh cửa ải thả từ trên lầu cao xuống một câu đối, nói rằng nếu Đại Việt đối được th́ họ sẽ mở cửa. Câu đối có nội dung như sau:

Quá quan tŕ, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan

(nghĩa là: Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua)

 
   

image

Một vế đối hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá! Mạc Đĩnh Chi lập tức đối ngay:

Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh Tiên sinh tiên đối.

(nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời Tiên sinh đối trước).

 Vế đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên, đúng với yêu cầu câu đối của viên quan ấy và v́ khá nhanh, nên quan nhà Nguyên phải phục và vội mở cửa thành để ông đi qua.       Như thế, Ải Nam Quan đă h́nh thành trước thế kỷ 14 rồi.

2- Nguyễn Phi Khanh

image

 làm quan cho nhà Hồ, tước Hàn lâm học sĩ rồi lần lượt thăng lên Thống chương Đại phu, Đại lư tự khanh kiêm Trung thư Thị lang, Tư nghiệp Quốc tử giám. Năm 1407, khi quân nhà Minh xâm lược nước Việt, Nguyễn Phi Khanh tham gia đánh nhau với Tầu, nhưng bị thua và bị bắt giải về Trung Quốc, qua cửa Ải Nam Quan.  Nguyễn Trăi là con trai, đi theo Cha đến tận Ải Nam Quan, rồi với hai hàng lệ lă chă, chia tay thân phụ ngay tại cổng Ải, rồi về lại quê nhà, và đi t́m Minh Chủ để giúp nước theo lời dặn của thân phụ. Việc này lại chứng minh là Ải Nam Quan nguyên thủy đă có từ nhiều thế kỷ trước, và đường biên giới giữa hai nước chạy ngang qua Ải Nam Quan, hiện nay nằm sâu trong lănh thổ Tầu, không phải cái kiến trúc hiện tại do Tầu xây sau này và hiện nay là điểm giao thương giữa hai nước.

Nguyễn Trăi khóc cha là Nguyễn Phi Khanh tại ải Nam Quan

Thật ra, không ai biết Ải Nam Quan được xây dựng vào thế kỷ nào, chỉ biết trước đó, vào thế kỷ thứ 10, 11, và 13, quân Bắc phương từng tấn công vào nước ta, đều xuất quân từ Ải Nam Quan cũ cách đường biên giới hiện tại gần 2000 mét.

image

Theo  http://ngodinhdiem.net/Lanh%20tho/AiNamQuan.html, vào thế kỷ 19, trước khi kư hiệp ước Thiên Tân,  quân Pháp và quân Thanh đă đại chiến ở cửa Ải Nam Quan (h́nh A 3, “Trấn Nam Quan Đại Chiến” minh họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào năm 1885). Sau đó, v́ không muốn giao chiến dằng dai với quân Tầu, thực dân Pháp buộc Việt Nam phải kư hiệp ước Thiên Tân công nhận Ải Nam Quan là thuộc của Tầu, và bắt Việt Nam ta phải lùi ranh giới vào sâu trong nội địa của ta.  Sau đó, trong chiến tranh biên giới Việt-Trung, tháng 2 năm 1979, Tầu đă mang hơn 200,000 quân tấn công sáu tỉnh biên giới phía Bắc và đă chiếm được các thị xă Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn. Theo tài liệu của Bắc Bộ phủ, th́ “Bộ binh Trung Cộng vào thị xă Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, vào thị xă Cao Bằng theo thung lũng sông Bằng và vào thị xă Lạng Sơn theo thung lũng sông Kỳ Cùng rồi vào ải Nam Quan.” Khi ngưng chiến vào ngày 5 tháng 3 năm 1979, quân Tầu lại lấn thêm một số vùng phía Nam của Ải Nam Quan, và thế là và trạm quan thuế của Cộng Sản phải dời vào sâu trong lănh thổ ta, từ 300 đến 400 m về phía Nam. Cộng Sản Việt Nam v́ thế yếu, nên im thin thít, không dám đ̣i lại đất.

 
 

 

image

Đến ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Hà Nội, hai ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm của Cộng Sản Việt Nam và Đường Gia Triền của Tầu  chính thức kư ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’, chấp nhận ải Nam Quan cũ thuộc về Tầu.  Hiệp ước này được quốc hội Tầu thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc hội Cộng Sản thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000. Từ đó, tiến hành việc cắm lại mốc biên giới cho đến năm 2008. (Đây chính là một hiệp ước Bán Nước mà Cộng Sản Việt thực hiện sau cái công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng).

 

imageV́ thế, trong sử sách của Cộng Sản Việt Nam, không hề có chữ nào nhắc nhở đến Ải Nam Quan nữa cả. Và để yên tâm hưởng quyền lợi mà không sợ bị Tầu Cộng giáng cho một bài học nữa, Bộ Chính Trị Bắc Việt cấm không được ai nói đến việc đ̣i lại Ải Nam Quan. Điều đau ḷng và nhục nhă cho người Việt là có những kẻ  cũng tin vào Tầu Cộng mà nói rằng Ải Nam Quan là của Tầu.

Những kẻ không có lương tri, không trí thức nên đồng thuận với Đảng Cộng Sản Việt Nam và vỗ tay tán thưởng việc Ải Nam Quan là của Tầu, đồng thời chế nhạo những ai muốn bảo vệ đất đai của Tổ Quốc khi đồng hóa cái Kiến Trúc Ải Nam Quan với Mảnh Đất mà trên đó cái cửa Ải được xây dựng. 

Một điều vô cùng quan trọng mà chúng ta phải phân biệt là: 1) cái kiến trúc Ải Nam Quân xây bằng gạch đá và 2) Mảnh Đất mà trên đó, cái kiến trúc kia được xây lên. Người Việt đau ḷng v́ mất phần đất mà trên đó, cái cḥi canh mà Tầu đặt tên là Trấn Nam Quan, Mục Nam Quan đă xây, chứ không ai thèm cái kiến trúc, cái cḥi canh do Tầu phù xây!

Những kẻ không có lương tri, không trí thức nên đồng thuận với Đảng Cộng Sản Việt Nam và vỗ tay tán thưởng việc Ải Nam Quan là của Tầu, đồng thời chế nhạo những ai muốn bảo vệ đất đai của Tổ Quốc khi đồng hóa cái Kiến Trúc Ải Nam Quan với Mảnh Đất mà trên đó cái cửa Ải được xây dựng. 

 
 

 

image

Giả dụ mà có đ̣i được lại phần đất đó, th́ nhất định người Việt sẽ đập vụn cái kiến trúc Tầu Phù đó đi mà xây lên một kiến trúc khác, chứ không ai đi đ̣i  một căn nhà mà kẻ khác đă xây lên trên đất ḿnh. http://www.chuacuuthe.com/2014/03/ai-nam-quan/

Trở lại chữ Ải Nam Quan. Chữ “Ải” là ǵ? “Ải” là một ranh giới, một đường biên, một phân cách giữa hai lănh vực. Người xưa có câu: Anh Hùng không vượt qua được Ải Mỹ Nhân! Trong câu này, Ải Mỹ Nhân không phải là một cái cḥi canh, một trạm gác, mà là một biên giới vô h́nh giữa Thiện và Ác, giữa tính Anh Hùng và sự đầu hàng trước giai nhân, giữa sự nghiệp cao quư và tính tầm thường của một con người.

 
   

image

C̣n Ải Nam Quan ở đây, không phải chỉ là cái cḥi canh được xây thành mấy tầng, mà là một đường biên giới quanh co nằm vào vĩ tuyến 8o33, cực Bắc của nước ta. Theo những tấm h́nh đă được chứng minh trong bài Ải Nam Quan trước đây, Ải Nam Quan là một dẫy thành uốn lượn theo triền núi, rồi từ một điểm thuận tiện giữa Ải, cả hai nước đồng ư mở một cánh cổng thông thương, và v́ Tầu là nước lớn hơn, giầu hơn, mạnh hơn, nên đă bỏ nhân lực và tiền bạc ra xây cái cổng (cḥi canh) này.

(Xin vào link: http://ngodinhdiem.net/Lanh%20tho/AiNamQuan.html  để nh́n thấy những tấm h́nh cụ thể về “cái gọi là” Ải Nam Quan, có thể là một con đường đi lên Ải, có thể là dẫy nhà dân chúng cạnh dẫy nhà lính tráng, cũng có thể là môt khoảng sân rộng trước cái cḥi canh xây cất cao nghệu…)

Trích đoạn một bài của Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Liêm về Ải Nam Quan:

“Đất nước của chúng ta càng nh́n về thuở xa xưa chừng nào càng rộng ra và càng lùi sâu về phía Bắc chừng nấy. Chúng ta không có những bản đồ ghi rơ những đổi thay đó qua thời gian dài mấy ngàn năm trước Tây Lịch. Nhưng trong tâm hồn người dân Việt vẫn c̣n những mốc cấm phân chia ranh giới giữa ta và Tàu. Mốc cấm thứ nhất là cột đồng Đông Hán do tướng Mă Viện cấm hồi khoảng năm 42 Tây Lịch. Mă Viện cho cấm trụ đồng nầy để phân chia ranh giới giữa hai nước. Trên cột đồng có khắc câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” mà đa số người Việt Nam đều nhớ nằm ḷng. Câu đó có nghĩa là khi nào trụ đồng găy đổ th́ dân Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt. Sợ trụ đồng găy đổ nên ông cha ta, mỗi người một viên đá cứ đem tới mà đắp vào dưới gốc trụ đồng cho đến một ngày kia đá chất lên thành núi lấp mất cả trụ đồng. Cột đồng Mă Viện ở đâu, nay ta không c̣n dấu vết ǵ cả. Trước đây trong số các thức giả có người ức đoán vị trí của cột đồng nằm trong vùng đất Cổ Lâu hay ở trong chân núi Phân Mao thuộc Châu Khâm của tĩnh Quảng Tây bên Tàu.

image

Mốc cấm thứ hai rơ ràng chính xác hơn. Đó là Ải Nam Quan mà h́nh ảnh vẫn chưa và sẽ không bao giờ phai mờ trong sách sử. Đây là một ải quan do Trung Hoa dựng lên trên con đường qua lại giữa hai nước để ngăn chia ranh giới của đôi bên: bên phía Bắc là châu Bằng Tường tĩnh Quảng Tây Trung Hoa, và phía bên Nam là xă Đồng Đăng châu Văn Uyên tĩnh Lạng Sơn của Việt Nam. Bên phía Bắc cửa ải có “Chiêu Đức Đài” do nhà Thanh xây cất để cho sứ bộ Trung Hoa nghỉ ngơi trước khi lên đường sang Việt Nam. Trên cửa ải có tấm biển đề “Trấn Nam Quan”. Bên phía Nam cửa ải có Ngưỡng Đức Đài là phần xây cất của nhà Nguyễn để làm chỗ tiếp đón sứ bộ Trung Hoa sang công cán ở Việt Nam và cũng là nơi nghỉ chân của sứ bộ Việt Nam trên đường sang Trung Quốc. Theo các sử quan nhà Nguyễn th́ Ải Nam Quan ra đời lúc nào không thấy ghi lại trong sách sử. Chỉ biết khoảng đời Lê Cảnh Hưng (niên hiệu của Lê Hiển Tông, 1740-1786), Đốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Đang khi sửa lại “Ngưỡng Đức Đài” có cho lập bia trên đó có ghi đại lược như sau: “Nước Việt ta có Ngũ Lĩnh, quan ải trước ở đâu không rơ, là v́ diên cách thế nào không ghi đủ. Gần đây lấy địa giới châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa quan. Cửa quan có Ngưỡng Đức Đài không rơ dựng tự năm nào, có lẽ bắt đầu từ đời Gia Tĩnh nhà Minh”.

image

Cửa Nam Quan mang nhiều tên khác nhau tùy triều đại. Cửa Nam Quan c̣n có tên là cửa Pha Lủy, từ đời Lê trung hưng người Tàu gọi là Trấn Nam Quan. Có lúc được gọi là Đại Nam Quan, Trấn Di Quan…Mao Trạch Đông đổi tên là Mục Nam Quan c̣n Hồ Chí Minh th́ gọi là Hữu Nghị Quan. Tuy nhiên cái tên đẹp nhất, quen thuộc nhất và cũng thiêng liêng nhất đối với đa số người Việt Nam vẫn là Ải Nam Quan

sheet 6354-4 (U.S. Army Map Service)

Ải Nam Quan nằm ở địa đầu tĩnh Lạng Sơn, cách Hà Nội 167 km về phía Đông Bắc. Lạng Sơn là một tỉnh lớn có 6,200 cây số vuông diện tích. Ở phía Bắc, Lạng Sơn giáp giới với tỉnh Cao Bằng và Trung Hoa. Ở phía Tây là tỉnh Bắc Kạn, phía Tây Nam là Thái Nguyên. Phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang và phía Đông là tỉnh Hải Ninh. Lạng Sơn ở trên cao độ thay đổi từ 100m đến 1,000 m. V́ xa biển nên hơi lạnh so với Hải Ninh; nhiệt độ trung b́nh ở đây là 21.7 độ C. Con sông quan trọng chảy qua Lạng Sơn là sông Kỳ Cùng, dài 170 km. Khoảng cách từ Hà Nội lên tỉnh lỵ Lạng Sơn là 154 km về hướng Đông Bắc. Từ dây đi thêm 2 km nữa là đến Phố Kỳ Lừa. Phố hay chợ Kỳ Lừa lập ra hồi tiền bán thế kỷ XV, là một nơi buôn bán sầm uất. Ở đây có món nem chua cũng rất nổi tiếng. Từ Kỳ Lừa đi thêm 10 km nữa th́ đến Đồng Đăng, nơi đây có nhiều phong cảnh đặc biệt.. Từ Đồng Đăng đi thêm 5 km nữa là đến Ải Nam Quan. Phía Tây Phố Kỳ Lừa có động Tam Thanh. Động Tam Thanh cũng gọi là chùa Tam Thanh v́ dây là ba hang động có thờ Phật trong đó. Động nhỏ nhất trong ba động là Động Nhất Thanh trong đó ngoài tượng Phật c̣n có thờ Ngô Th́ Sĩ, cha của Ngô Th́ Nhậm. Ngô Th́ Sĩ đỗ tiến sĩ năm 41 tuổi, làm quan đến Đốc Trấn Lạng Sơn. Oâng là người rất liêm khiết , rất thương dân, lo lắng giúp đỡ dân nên khi chết được dân chúng tạc tượng thờ ở đây.

Trước động Tam Thanh có núi Vọng Phu và tượng nàng Tô Thị mà câu chuyện thương tâm đă được nhạc sĩ Lê Thương diễn tả trong những bảng nhạc Ḥn Vọng Phu bất tử của ông. Các địa danh nổi tiếng nầy cũng đă được người dân Việt ghi lại trong những câu ca dao :

image


     “Đồng Đăng có Phố Kỳ Lừa,
     Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”.
 

Từ xưa tỉnh Lạng Sơn với cửa Nam Quan đă từng là nơi diễn ra bao nhiêu biến cố lịch sử đau thương cũng có nhưng phần lớn là oai hùng của dân tộc Việt. Đây là nơi xảy ra câu chuyện “Hận Nam Quan” với lời dặn ḍ của Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trăi “con phải trở về thay cha báo thù nhà đáp đền nợ nước”, đánh dấu việc Nguyễn Trăi gạt nước mắt nghe theo lời cha đau đớn quay về thao luyện binh tướng pḥ tá B́nh Định Vương dành lại độc lập cho xứ sở. Bao nhiêu binh tướng kiêu hùng của Trung Quốc đă xông vào cửa ải nầy qua dày xéo lănh thổ Việt, rồi cũng bao nhiêu binh tướng đó mua lấy thất bại chua cay hoặc bỏ thây trên quê người hoặc nhục nhă xác xơ chạy trối chết qua cửa nầy về Trung Quốc như Thoát Hoan (nhà Nguyên), như Liễu Thăng (nhà Minh), như Tôn Sĩ Nghị (nhà Thanh).

 
 

 

Tiếc thay! Lạng Sơn ngày nay phải chứng kiến một cảnh tượng đau ḷng: cửa Nam Quan không c̣n nằm ngay trên biên giới của tỉnh này và tỉnh Quảng Tây nữa, nó đă lùi xa vào phần đất của Trung Hoa. Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Liêm.” (http://www.quocgiahanhchanh.com/tuainamquan.htm)

 

image

Với những sự kiện rơ ràng đă ghi trong lịch sử như thế, Ải Nam Quan nguyên thủy đă thực sự bị Tầu chiếm mất. Người Việt c̣n tinh thần yêu nước, kính trọng Tổ Tiên, ngưỡng mộ và ghi ơn những chiến sĩ đă bỏ thân ḿnh mà bảo vệ cửa Ải này, phải tâm nguyện sẽ có một ngày dành lại giang sơn mà Tổ Tiên đă bỏ bao nhiêu xương máu gầy dựng. Nếu chỉ an tâm hưởng nhàn, quên nhiệm vụ quan trọng này, th́ sẽ mang tội với Tổ Tiên, nếu không muốn được coi là kẻ phản bội Tổ Quốc.

 

        Chu Tất Tiến