T́m hiểu Cấu trúc tác phẩm thuộc loại thơ tự do của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền
Thanh Tâm Tuyền là một trong vài nhà thơ lớn nhất và có ảnh hưởng nhất không những ở miền Nam từ 1954 đến 1975 mà c̣n của cả nước thời kỳ hậu Geneva nói chung. Thơ của ông, cho đến nay, vẫn c̣n là một nguồn cảm hứng lớn đối với nhiều nhà thơ có khát vọng đổi mới. Chúng ta hăy thử t́m hiểu cấu trúc tác phẩm thơ của ông để từ đó thấy được nét riêng biệt, độc đáo của tác giả khi xây dựng tác phẩm thuộc loại thơ tự do. Xin khảo sát hai tập thơ nổi tiếng của Thanh Tâm Tuyền Tôi không c̣n cô độc và Liên, Đêm, Mặt trời t́m thấy .
I- Cấu trúc hai tập thơ
1 - Cấu trúc mặt nội dung quy hướng về sự giăi bày tâm sự
Ở tập thơ Tôi không c̣n cô độc tác giả muốn giăi bày tâm sự của một cái tôi cô đơn, cô độc đang đi t́m tự do, chân lí và hạnh phúc trong cuộc đời đầy biến động và ở tập thơ Liên, Đêm, Mặt trời t́m thấy, tác giả muốn giăi bày tâm sự thể hiện niềm vui lớn trong cuộc đời tác giả, có sự hoà hợp giữa t́nh cảm riêng và lẽ sống chung: ”Liên” là niềm vui về t́nh yêu – hạnh phúc, hay chí ít cũng là ước ao về một t́nh yêu – hạnh phúc. C̣n ”Đêm, Mặt trời t́m thấy” là sự vận động tích cực từ những ngày u ám đến ánh sáng. |
||
Xét trong nội bộ tập thơ Tôi không c̣n cô độc có nhiều bài viết về đề tài chính trị hoặc có liện quan đến những sự kiện, nhân vật chính trị như: Ôi anh em cộng hoà; Trưởng thành; Phiên khúc 20; Tù binh; Bài thơ chữ số; Tự do. Những bài thơ này sử dụng trực tiếp những từ ngữ chính trị như “cộng sản”, “cộng hoà”, “phát xít”, Phan Văn Hùm, Khái Hưng… những địa danh có ư nghĩa biểu tượng cho những chế độ chính trị như: Vác-xô-vi, Bá Linh, B́nh Nhưỡng, Buy đa bét, Mốt cu, Pra gơ, Bắc kinh, Hà Nội – Huế – Sài G̣n… Trong tập thơ này, tác giả bày tỏ quan điểm chính trị, ngôn ngữ rơ ràng đơn giản của ḿnh. Quan điểm đó cũng là lập trường chung kiểu thơ ca kháng chiến, chỉ có điều tác giả có cách nói riêng. Đặc điểm ngôn ngữ thơ chính trị của tác giả trong toàn tập thơ là nhiều khi gay gắt (bài Tù binh). Bên cạnh đó một số bài cũng dính dáng đến chính trị nhưng chỉ để thể hiện một khát vọng tự do, khát vọng sống mà không chỉ thể hiện cái nh́n và tư duy chính trị đơn thuần.
Xét trong nội bộ tập thơ Liên, Đêm, Mặt trời t́m thấy th́ đề tài chính trị gần như không liên quan đến đề tài chính trị, nếu có th́ cũng chỉ là thứ yếu. Vẫn c̣n những cái tên như Napoleon, Hà Nội, Hải Pḥng, Budapet, Đông Âu… nhưng không c̣n những câu, những bài thơ chuyên về đề tài chính trị. Trong tập thơ này Thanh Tâm Tuyền nghĩ đến h́nh ảnh tổ quốc, khát vọng tự do. Khi thổn thức về “em”, về t́nh yêu, ông day dứt nỗi niềm tổ quốc, ttrong câu chuyện cùng em. Qua “em” Thanh Tâm Tuyền bày tỏ nỗi niềm tổ quốc. Hai h́nh tượng “em” và “tổ quốc” nhiều lúc đi đôi với nhau. Nổi bật nhất là bài thơ Hăy cho anh khóc bằng mắt em và Những cuộc t́nh duyên Budapet thể hiện nỗi cảm xúc tối đa về “em”: Hăy cho anh khóc bằng mắt em; Hăy cho anh la bằng cổ em; Hăy cho anh run bằng má em; Hăy cho anh ngủ bằng trán em; \ Hăy cho anh chết bằng da em… Đi với đề tài t́nh yêu ở Liên, Đêm, Mặt trời t́m thấy là h́nh tượng em (19 bài viết về t́nh yêu, 23 bài có h́nh tượng “em”), gần như xuyên suốt tập thơ.
2- Cấu trúc mặt h́nh thức quy hướng về cấu trúc mở
Chúng ta thấy được cấu trúc của hai tập thơ là một cấu trúc mở , hay cấu trúc động. Cấu trúc vừa theo lực hướng tâm vừa theo lực ly tâm. Lực hướng tâm thu hút, sắp xếp những yếu tố tản mạn, đối nghịch nhau thành một chỉnh thể. C̣n lực ly tâm, cũng mạnh mẽ không kém ǵ lực hướng tâm, để cho các từ vượt thoát khỏi hấp lực của trường ngữ nghĩa nguyên thủy đi lang thang ra ngoài t́m những tṛ chơi mới” khi cấu trúc trở nên xộc xệch. Xét toàn bộ hai tập thơ, ta không khó nhận ra cái mạch ch́m liên hệ nối liền cảm xúc tác phẩm. Như vậy trong mỗi tập thơ tác giả đă tạo cho nó những “huyết mạch” chung, liện lạc với nhau để nuôi sống “cơ thể” tập thơ. Những huyết mạch ấy níu kéo, liên kết những tế bào riêng lẻ làm nên tính chỉnh thể cho tập thơ, giúp tập thơ không bị phân tán, vỡ vụn. Tuy nhiên mỗi bài có một h́nh thức diễn đạt riêng, một quy luật riêng được đặt trong một giới hạn chung – giới hạn Thanh Tâm Tuyền. |
||
II- Cấu trúc bài thơ
Tập thơ Tôi không c̣n cô độc gồm có những bài sau đây: Của em, Định nghĩa một bài thơ hay, Gửi Quách Thoại, H́nh ảnh, Hoa, Kêu gọi, Kiến trúc, Lệ đá xanh, Liên những bài thơ t́nh thời chia cách, Mắt biếc, Mặt trời, Một bài thơ, Mưa ngủ, Người yêu, Nhịp ba, Ôi anh em Cộng Ḥa, Phiên khúc, Phục Sinh, Thành Phố 1, T́nh Cờ, T́nh yêu giữa đám đông, Tôi không c̣n cô độc, Từ bao giờ, Vĩ Tuyến, Ở đây tôi là vị hoàng đế, Bài thơ chữ số, Bằng hữu, Bến tàu, Chim, Của Duy Thanh.
Tập thơ Liên, Đêm, Mặt trời t́m thấy gồm có những bài sau đây: Bài hát buồn, Bài ca ngợi t́nh yêu, Bài thơ của tháng giêng , Bao giờ , Chiều trên phi trường, Cỏ, Dạ khúc, Đen, Đêm, Đoản khúc, Đừng bắt tôi từ biệt , Hăy cho anh khóc bằng mắt em, Những cuộc t́nh duyên Budapest, Hơi thở, Mai, Mặt trời tỉm thấy, Một chỗ trên xe buưt, Nguyên, Nhân danh, Nói về dĩ văng, Sầu khúc , Tên người yêu dấu, Thành phố II, Thức giấc, Từ chối, Về Quách Thoại. |
1- Cấu trúc 1: Bài thơ chia đoạn, chia phần, chia khúc
Bài thơ của Thanh Tâm Tuyền không chia khổ theo lối chia “truyền thống”. Nghĩa là khổ thơ không chia theo sự hài hoà cân đối số lượng các câu bằng nhau, cũng không phải là cách chia theo tính độc lập tương đối của nội dung. Thơ Thanh Tâm Tuyền chia đoạn, các đoạn độc lập với nhau trong bài. Có khi một câu thơ tách ra riêng biệt như một khổ, có khi đó là một đoạn thơ văn xuôi dằng dặc tuôn trào theo ḍng cảm xúc. Khái niệm khổ thơ hầu như vắng mặt trong sáng tác ở hai tập Tôi không c̣n cô độc và Liên, Đêm, Mặt trời t́m thấy
Bài thơ có thể được cấu tạo theo nhiều cách:
-a/- một bài chia thành các đoạn mang tên tuỳ vào cảm xúc . Ví dụ Bài thơ Tôi không c̣n cô độc |
||
Hợp xướng
mỗi
bàn tay nằm một ḷng tay
mùa xuân t́nh con ngươi
chúng tôi cúi chào
-b/ -một bài được chia thành các khúc được đặt tên . Ví dụ Bài thơ Đoản khúc MỘT LẦN NỮA
Không ḷng tay đặt lên
-c/- Một bài thơ chia thành các phần đánh số theo thứ tự có thể hướng theo một chủ đề ẩn nào đó Ví dụ bài thơ Ngợi ca t́nh yêu
1.
Đất nước có một lần |
||
những ḍng sông những đường cày
núi nhọn
Tôi chờ đợi
chảy máu |
2.
- d/ một bài chia thành các phần đánh số theo thứ tự có thể hướng theo một chủ đề khá rơ .Đây là h́nh thức kết hợp khá phổ biến trong thơ Thanh Tâm Tuyền . Ví dụ Bài thơ Đêm; |
||
1. (Khúc một: về chiến tranh và t́nh yêu).
Trưa nắng cháy
2. (Khúc hai: hạnh phúc, chân lư và lừa dối).
Những bài thơ được chia ra làm nhiều phần ( chẳng hạn bài thơ Đêm), được đánh dấu bằng những con số vẫn có sự thống nhất của một chỉnh thể, sợi dây liên kết là những chủ đề, đề tài nào đó có lúc ta không khó để nhận ra. Những chủ đề, đề tài của bài thơ, xin đưa ư kiến của nhà nghiên cứu Thụy Khuê để làm ví dụ: “Trường ca Đêm trong tập thơ Liên đêm mặt trời t́m thấy gồm 10 Khúc, mỗi khúc là một khúc giao hưởng giữa bóng tối và ánh sáng. Khúc một: chiến tranh và t́nh yêu. Khúc hai: hạnh phúc, chân lư và lừa dối. Khúc ba: sa mạc và tự do. Khúc bốn: xiềng xích và lưu đầy. Khúc năm: bất lực và đói khát. Khúc sáu: Những người t́nh đă mất. Khúc bảy: con quạ trong văn chương. Khúc tám: Man trá và đồng loă. Khúc chín: Niềm cô độc đen. Khúc mười: Huỷ diệt.
10. ( khúc mười: Huỷ diệt)
Có
ai gọi tên tôi giữa phố, ngay sau lưng
Toàn bộ mười đoản khúc trổi dậy như mười bản giao hưởng mà âm vang biến đổi tùy theo người nghe đứng ở phía nào của cuộc sống” . Những bài thơ phân khúc của Thanh Tâm Tuyền mới xem qua tưởng như rời rạc, bị chia cắt như những mảnh vỡ nhưng trong chiều sâu những đoản khúc luôn liên kết nhau theo một nguồn mạch chung, chịu sự chi phối của ḍng mạch ấy. Đó là một cấu trúc động, độ mở lớn, mỗi phần của bài thơ tuy có điểm tiếp xúc với toàn bài nhưng hoàn toàn độc lập, thậm chí có lúc bứt ra khá xa cái quỹ đạo chung. |
||
2. Cấu trúc 2 : Mở và Kết thúc bài thơ
Mở bài
Câu thơ mở đầu thường vô định . Phần lớn câu mở đầu các bài thơ gần như không ăn nhập ǵ với nhan đề và quan hệ xa với chủ đề.
Câu mở đầu trực tiếp chiếm số lượng nhỏ hơn trong hai tập Tôi không c̣n cô độc và Liên, Đêm Mặt trời t́m thấy
Câu mở đầu gián tiếp chiếm số lượng lớn, gần như không mấy liên kết với nhan đề bài thơ, nói cách khác mối quan hệ “huyết thống” ấy là rất xa xôi. Có thể trích ra một số câu mở đầu kiểu như vậy:
Tôi buồn khóc như buồn nôn ( bài thơ Phục sinh) – Cửa sổ trời những mắt chưa quen (bài thơ Của em) – Người tài xế mặc áo đen (bài thơ :Một bài thơ) – Mây đục đậu lên bờ cửa sổ (bài thơ Gửi Quách Thoại) – Đêm giao thừa thế kỉ mưa rơi sao (bài thơ Chim) – Dù sao mai pḥng triển lăm sẽ đóng cửa (Bao giờ) (…) Lí giải về hiện tượng khá thú vị này, chúng tôi cho rằng, Thanh Tâm Tuyền muốn bứt ra khỏi vết xe truyền thống.. Kiểu mở đầu như thế giúp câu thơ, bài thơ bứt phá khỏi khung khổ, giúp những câu thơ tiếp theo cất cánh bay cao, bay xa theo trí tưởng tượng của nhà thơ, của độc giả (khi bài thơ đến với độc giả). |
Kết bài Kết bài trong thơ Thanh Tâm Tuyền là lối kết thúc mở. kết thúc về mặt h́nh thức nhưng về mặt nội dung th́ gần như chưa kết thúc và không thể kết thúc. Nghĩa là mạch thơ như vẫn đang tiếp diễn theo một chiều hướng nào đó buộc người đọc phải phỏng đoản, phải day dứt trăn trở và thậm chí không yên. Thanh Tâm Tuyền không áp đặt cho người đọc theo một logic, theo một lối ṃn tư duy. Thơ ông giúp người đọc tự do trong tiếp nhận, đồng sáng tạo với tác giả.
Đa phần kết thúc trong hai tập thơ Tôi không c̣n cô độc và Liên, Đêm, Mặt trời t́m thấy là không nhằm giải quyết vấn đề.
Sở dĩ có đặc điểm trên v́ thơ Thanh Tâm Tuyền không diễn đạt trọn vẹn một nội dung tư tưởng. Ư nghĩa trong thơ ông như bị cắt đứt, bị chia cắt thành những mảng, phải xâu chuỗi lại hết sức khéo léo ta mới mơ hồ nắm được điều ǵ đó. Mỗi đoạn, mỗi câu, thậm chí mỗi thành phần câu trong thơ có tính độc lập rất cao. Hăy xem kết thúc của bài thơ Định nghĩa một bài thơ hay: giă từ cái giường cái bàn cái ghế một người và hai người và ba người một người và hai người và ba người |
||
Có khi bài thơ kết thúc bằng h́nh ảnh, h́nh ảnh thơ tạo một độ ngân vang, cánh chim khép lại bài thơ và mang theo bao suy ngẫm trăn trở trong ḷng độc giả. Hăy xem kết thúc của bài thơ Chim. chim bay vào trận mưa sao
Có khi bài thơ kết thúc bằng h́nh ảnh chủ đạo của bài thơ: Hăy xem kết thúc của bài thơ Lệ đá xanh đau đớn lệ là những viên đá xanh Tim rũ rượi
Có khi bài thơ kết thúc mà tác giả và người đọc đều không thể nào t́m thấy câu trả lời. Ví dụ bài Sầu khúc (đoạn 3) kể một câu chuyện khá trọn vẹn, có điều câu chuyện ấy vừa là những mảng ghép vừa là câu chuyện của tưởng tượng hư cấu. Tác giả hoá thân vào nhân vật tôi, đi t́m câu trả lời nơi thần chết:
Tôi t́m thần chết hỏi Nàng được tự do chăng ? Thần chết câm và điếc Tôi nắm tóc bắt gật đầu Và trở về dương thế
Có khi bài thơ kết thúc bằng h́nh ảnh, h́nh ảnh thơ tạo một độ ngân vang, cánh chim khép lại bài thơ và mang theo bao suy ngẫm trăn trở trong ḷng độc giả. Hăy xem kết thúc của bài thơ Chim. chim bay vào trận mưa sao
Có khi bài thơ kết thúc bằng h́nh ảnh chủ đạo của bài thơ: Hăy xem kết thúc của bài thơ Lệ đá xanh đau đớn lệ là những viên đá xanh Tim rũ rượi
Có khi bài thơ kết thúc mà tác giả và người đọc đều không thể nào t́m thấy câu trả lời. Ví dụ bài Sầu khúc (đoạn 3) kể một câu chuyện khá trọn vẹn, có điều câu chuyện ấy vừa là những mảng ghép vừa là câu chuyện của tưởng tượng hư cấu. Tác giả hoá thân vào nhân vật tôi, đi t́m câu trả lời nơi thần chết:
Tôi t́m thần chết hỏi Nàng được tự do chăng ? Thần chết câm và điếc Tôi nắm tóc bắt gật đầu Và trở về dương thế
Có khi bài thơ kết thúc mở ra những suy tư, chiêm nghiệm về thế giới, mang triết lí nhân sinh. Ví dụ bài thơ đoản khúc được chia thành nhiều khúc nhỏ. -Một khúc nhỏ nhan đề bài THƠ VUI kết thúc bằng
Thiếu nữ cười tinh nghịch như ḥn sỏi Ném lăn theo triền mái ngói
Cái kết thúc này tạo ra một âm thanh khô khan, cộc lốc, vô hồn của ḥn sỏi hoà vào tiếng cười của người thiếu nữ. Âm thanh chói chang ấy bên cạnh một thân phận, một người treo cổ trên cành cây trong công viên, gợi cái ǵ chua chát, xót xa… Người đọc nh́n thấy sự đối lập của hai thân phận, thấy sự vô t́nh của cuộc sống thế nhân hay thấy sự thanh thản của một con người vốn nhiều ẩn ức trước khi chết?… Có lẽ là tất cả nhưng không là một cái ǵ cụ thể, chỉ c̣n lại là âm vang của tiếng cười, âm vang của ḥn sỏi. |
||
-Một khúc nhỏ khác có nhan đề TĨNH VẬT kết thúc bằng hai ḍng ngắn ngủi:
kẻ đi ngoài kia la vào mồm sống
Kết thúc đó vừa là tiếng chửi rủa vừa là ám ảnh về cuộc đời, với những chết chóc, đói nghèo và máu… khiến người đọc lại phải trăn trở về cuộc đời, về xă hội
3. Cấu trúc 3: Tư tưởng thuộc lănh vực Văn hóa trong bài thơ
Thanh Tâm Tuyền hấp thụ hai nền văn hóa Đông Phương và Tây Phương. Ông hấp thụ văn hóa Đông Phương v́ sinh ra và lớn lên trong nền văn hóa này quá nửa cuộc đời. Ông hấp thụ văn hóa Tây Phương v́ gia đ́nh ông theo Thiên Chúa Giáo, c̣n ông theo học chương tŕnh Pháp, nên ông có cơ hội đọc và tích luỹ tri thức triết học Tây Phương |
a/- Văn hóa Đông Phương bao gồm truyền thống dân tộc Việt và Lăo Phật Nho Giáo.
V́ ông hấp thụ văn hóa Đông Phương nên bài thơ Liên những bài thơ t́nh thời chia cách phảng phất văn hoá truyền thống: Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai (nếu đời người không có những sớm mai) Anh trở dậy đọc thơ Nguyễn Du những câu hát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
V́ ông hấp thụ văn hóa Đông Phương nên bài thơ Lệ đá xanh phảng phất h́nh ảnh người thiếu phụ chờ chồng mà hoá đá trong truyện cổ tích Núi vọng phu, có điều trong thơ Thanh Tâm Tuyền con người không hoá đá mà nước mắt người hoá đá. Bài thơ Lệ đá xanh nói về những thân phận cô đơn lẻ loi bằng h́nh ảnh: những người khóc lệ không rơi ngoài tim ḿnh em biết không lệ là những viên đá xanh tim rũ rượi |
||
V́ ông hấp thụ văn hóa Đông Phương nên ông thường đột nhiên, từ những ḍng thơ văn xuôi rất tự do ngẫu hứng trở về với phong vị ca dao cũng hết sức tự do: Ví dụ bài thơ Mưa ngủ dẫn chứng với mấy câu thơ sau đây
Em đi thăm vườn trái cây và em có thể bắt đầu làm việc. Ngực trần không vướng víu anh, thấy anh với hơi thở với bầu trời với cây màu đất là một. Mưa bên kia sông mưa nửa ḍng nước Ta thương cô ḿnh như bước nhớ chân Hoa dù tàn muôn vạn ngh́n lần Ḷng ta vẫn chỉ một lần yêu thương Hồn nhiên tôi trở thành thi sĩ ca dao, nhẹ những nhát cuốc đầu xới lần áo mỏng ruộng đồng
b/- Văn hóa Tây Phương bao gồm các triết học Tây Phương và Thiên Chúa Giáo.
V́ ông hấp thụ văn hóa Tây Phương nên trong thơ ông: - ta thấy bài thơ Phục sinh phảng phất Thiên chúa giáo: buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường tôi xin một chỗ thầm kín cho đứa nhỏ linh hồn sợ chó dữ con chó đói không màu
-ta thấy bài thơ Đen phảng phất văn hoá thế giới.: Bài thơ mang đậm chất jazz về thân phận một người da đen. Không chỉ nói lên h́nh tượng một người da đen khốn khổ mang thân phận nhỏ bé của kẻ nhược tiểu mà những nét văn hoá của người da đen cũng bộc lộ khá đặc sắc. Đó là tiết tấu nhạc jazz sôi động, một nét văn hoá tiêu biểu của người Phi châu nói chung, âm thanh tiếng kèn đồng réo rắt, nhạc cụ của người da đen. Không gian bầu trời đen bao phủ cả núi rừng… gợi lên những ǵ thảm thương của những số kiếp, gợi lên bản sắc Phi châu hay văn hoá da đen
c/- Văn hóa hỗn hợp Đông Phương và Tây Phương
Với đầu óc hấp thụ hai nền văn hóa Đông Tây, Thanh Tâm Tuyền nh́n đô thị Việt vào những năm 1950 – 1965 một cách độc đáo. Trong sáng tác thơ, ông nhấn mạnh những nhà, những phố, quán bar, chuyến ôtô buưt, chuyến tàu, xi măng, gạch ngói, h́nh ảnh những cô gái vừa gần vừa xa… Có thế nói, ông là nhà thơ của đô thị. Thơ ông phản ánh tâm thức con người đô thị, nhịp sống đô thị…một cách sâu sắc lúc bấy giờ. Những h́nh ảnh về thành phố th́ dày đặc, mỗi h́nh ảnh đều có một ư nghĩa và soi rọi vào chiều sâu tâm hồn người trí thức đô thị giữa thế kỉ XX. V́ vậy , h́nh ảnh đô thị trong thơ Thanh Tâm Tuyền không nh́n ở góc độ đẹp – xấu mà ở góc độ phản ánh thế giới quan, phản ánh tâm thức con người. Trong không gian thơ Thanh Tâm Tuyền, cái náo nhiệt ồn ào của đô thị xuất hiện không nhiều, nó không đem đến niềm vui hay sự phấn chấn, cũng không nhằm điểm tô, ca ngợi hay trang hoàng cho một đô thị hiện đại được mệnh danh là Ḥn ngọc Viễn Đông, nó cho thấy một thế giới nhốn nháo, tất bật và không ít phần đơn điệu: Bài thơ Thành phố I có những câu:
mưa giờ giới nghiêm tăm tối Bài thơ Thành phố II có những câu Rất nhiều khoảnh khắc, bỗng nhiên hè đường tách ĺa khỏi linh hồn, rồi những mặt nhà những cḥm cây xe cộ nghĩa là thành phố đáng ghét như thù nghịch
V́ Thanh Tâm Tuyền hấp thụ hỗn hợp văn hóa Đông Tây, nên thơ ông có một số bài phản ảnh sự giao thoa đa văn hóa , chẳng hạn bài thơ Phục sinh Mục tiêu bài thơ Phục sinh là : “Để đạt đến độ hoàn thiện bản thân, con người phải đấu tranh với chính ḿnh để chiến thắng cái phần bản năng dă thú của ḿnh”. Mục tiêu là như vậy, nên nhà thơ dùng h́nh ảnh con chó Sói dữ (phần con, phần dă thú trong con người) và h́nh ảnh em bé quàng khăn đỏ (phần trong sáng thánh thiện trong tác giả và cũng là của chúng ta). Hai h́nh ảnh Em bé quàng khăn đỏ lấy ra từ một câu chuyện cổ tích có nguồn gốc từ Ư được kể bởi anh em nhà Grim. Em bé và Sói là hai h́nh tượng đại diện cho hai thế lực ở hai tuyến trong cổ tích: cái thiện – thơ ngây – trong sáng (em bé) và sự độc ác – gian xảo – xấu xa (Sói).
tôi hét tên tôi cho nguôi giận thanh tâm tuyền đêm ngă xuống khoảng th́ thầm tội lỗi em bé quàng khăn đỏ ơi này một con chó sói thứ chó sói lang thang
. Thanh Tâm Tuyền không khép ḿnh trong những bức tường của chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà tiếp biến văn hoá nhân loại, điều đó vừa làm mới cho thơ ca ông, vừa phần nào làm mới cho thơ ca dân tộc. |
||
Nhận định Loại Thơ Tự Do là một loại thơ rất dễ làm. Tuy nhiên khó mà có được một bài Thơ Tự Do hay. Một bài thơ hay nghĩa là một bài có giá trị. Bài thơ có giá trị phải được viết do một tác giả có hồn thơ và bài thơ phải hàm súc nhiều ư nghĩa. Các bài Thơ Tự Do của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền được giới hâm mộ thơ ngưỡng mộ, thán phục hết ḿnh và liệt kê vào sổ các bài thơ có giá trị. Xin quư vị độc giả kiểm chứng lời nhận định của giới hâm mộ thơ về các bài thơ củaThanh Tâm qua lối cấu trúc bài thơ và lối cấu trúc tập Thơ Tự Do của thi sị Thanh Tâm Truyền. Bài viết của người Sưu tầm: PK |