Cửa biển Thần Phù

               Nơi có nhiều huyền thoại

                      trộn lẫn với chứng tích lịch sử.

 

 

 

Cửa Thần Phù có tên gọi từ thời Lư. Theo sử cũ, vua Lư Thái Tông mang quân Nam tiến đánh giặc Chiêm Thành, đến cửa biển này gặp sóng to, gió lớn, thuyền chiến không đi được, may nhờ có một đạo sĩ pháp thuật cao cường, dẹp yên sóng dữ. Thắng trận trở về, nhà vua cho lập đền thờ tưởng nhớ vị đạo sĩ nọ. Đền thờ có tên là Áp Lăng chân nhân (người dẹp yên sóng dữ) và nhà vua gọi tên nơi này là cửa biển Thần Phù (hay c̣n gọi là Thần Đầu).

Để có cái nh́n tổng quát địa lư của cửa biểnThần Phù, chúng ta có thể tính từ hai bên vùng đất bồi của sông Đáy ( phía Bắc) tới  tận cùng  ở cửa Rạch Sung có ḥn Nẹ nằm phía nam. Ḥn Nẹ là ḥn đảo nhỏ nằm ngoài khơi nằm cách bờ biển Nga Sơn khoảng 6 km về phía Nam..

Cửa  Rạch Sung tiếp giáp với huyện Nga Sơn là nơi  hội tụ của ḍng chảy sông Càn.    Thực chất sông Càn là đoạn hạ lưu của 2 sông Tam Điệp và sông Bút ((Yên MôNinh B́nh) phụ lưu của Sông Đáy.

 
   

     Xin  coi Sông Đáy bao quanh tỉnh Ninh B́nh trong bản đồ dưới đây

  Để định vị trí những vùng nguy hiểm của Cửa Thần Phù khi c̣n là biển cả, th́ nên khoanh vùng ngay cửa sông Chính Đại được nối tiếp với con sông Càn và con sông Trinh nơi có  những  vùng đá ngầm gây nhiều thiệt hại cho thuyền bè đi lại.   Hai bên cửa sông Chính Đại có những  dẫy núi nguy hiểm như: núi Bầu Tiền, núi  Đầu Trâu, núi An Tiêm, núi Nhân Sơn, Núi Sen, núi Chóp Chài, núi Quan Lợn, núi Chính Đại, núi Miễu, núi Tân Ṭng..

  Vùng núi nguy hiểm ngày nay bao quanh  các làng Chính Đại, làng Ṭng Chinh, làng Tân Chính, làng Lai Thành, làng  Văn Đức, làng Nhân Sơn, làng Thịnh Phú. Tất   cả   vùng núi nguy hiểm của  cửa Biển Thần Phù  nay đă nằm sâu trong đất liền qua nhiều thế kỷ.

Địa lư  đất bồi của  cửa Thần Phù phải kể  đến các huyện  Tiền Hải, thuộc tỉnh  Thái B́nh, huyện Nam Trực và Giao Thuỷ  thuộc tỉnh Nam Định, huyện Kim Sơn  thuộc tỉnh Ninh B́nh, huyện Nga Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa . Huyện Nga Sơn   có bờ biển dài 20 km và hàng năm Nga Sơn lấn ra biển từ 80 đến 100 m do phù sa bồi đắp của sông Hồng và sông Đáy.

    Dưới đây  là  bản đồ huyện Nga sơn

Bản đồ Hành chính Nga Sơn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      A-Cửa Biển Thần Phù có những  chứng tích

Những chứng tích  vừa huyền thoại vừa lịch sử nổi tiếng.  Những chứng tích này lại  liên hệ đến vùng núi non hiểm trở, ngày nay thuộc về  huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa, và huyện Yên Mô thuộc tỉnh  Ninh B́nh.

 
 

 

  1 - Chứng  tích chữ  Thần  trên Núi Bia Thần (Núi Thạch Bi )

  Một ngọn núi thuộc dẫy núi Tam Điệp   có một kư tự chữ Thần  được tạc vào chính giữa vách núi dựng đứng và bằng phẵng.  Chữ Thần này cách mặt đất  20m, rộng  3m, cao 3,5m.   Bên cạnh   chữ Thần c̣n có các chữ khác nữa, nhưng v́ nước chảy và rêu bám vào khiến chúng bị lu mờ, không c̣n có thể đọc được. Nước từ trên núi nhỏ xuống, chảy qua chữ Thần, trông như một ḍng nước mắt vậy.  V́ vậy núi này được gọi bằng 2  tên    Núi Thạch Bi  hoặc Núi  Bia Thần Núi này sừng sững  bên cạnh sông Hoạt ở phường Mỹ Quan, thuộc huyện Tống Sơn nay là phần đất xă Nga Thiện, huyện Nga Sơn.

Chữ Thần này   đă  được tạc vào vách núi từng bao thế kỷ, khi núi này c̣n ở ngoài  biển xa  cửa Thần Phù.   Vậy ai  đă tạc chữ Thần này ?   và bằng cách nào?

Phương thức  mà người xưa dùng  để  điêu khắc chữ Thần cho đến hiện tại vẫn c̣n là  một điều bí ẩn.  Có một cái hang xuyên thẳng  từ chân  núi lên  tới đỉnh núi, song không có  ngách nào vươn ra tới vách đá, nơi tạc chữ Thần, xung quanh vách đá cũng không  có  điểm dừng chân. Vậy người xưa đă làm thế nào để tạc  được một chữ Thần to lớn và công phu đến như vậy?.

      Sách Đại Nam nhất thống chí   (phần tỉnh Thanh Hóa, quyển thượng) của Quốc sử quán triều Nguyễn có chép: “Núi Thạch Bi có một chữ Thần trên vách đá ,viết bằng nét son tươi thắm,   tương truyền  rằng vua Lê Thánh Tông đề.

 
 

 

  2-  Chứng tích truyện  Mai An Tiêm

      Mai An Tiêm bị vua  Hùng Vương thứ 17   phạt  đi  đầy  tại hoang đảo ngoài khơi cửa biển Thần Phù v́ lộng ngôn với thuyết Tiền thân.  Ở hoang đảo, An Tiêm khám phá ra loại dưa hấu rồi trồng nó mà sinh sống .

  Chứng tích về núi  An Tiêm như sau:

Ḥn núi Nhân sơn, người ta cũng gọi là núi An Tiêm mà bao nhiêu thế kỷ trước đây nó c̣n nằm ngoài biển khơi xa tắp tận chân mây. Từ đó vợ chồng An Tiêm chiều chiều vẫn ngồi trên băi biển hướng về quê nhà . Nỗi thất vọng tràn ngập  tâm hồn, tưởng sẽ  không bao giờ được  đặt chân trở lại đất liền.

Nay nhờ đất phù sa bồi đấp mà ḥn núi Nhân sơn( tức núi An Tiêm)  nằm trong đất liền thuộc xă Nga Trường  huyện  Nga Sơn

Ḥn núi vẫn sừng sững đứng ngạo nghễ qua nhiều thế kỷ, trên  sườn núi cao là một ngôi mộ của  An Tiêm sơn trắng vẫn thi gan cùng tuế nguyệt.  Dưới chân núi phía bên kia , một ngôi đền vẫn được sơn phết bảo tŕ qua nhiều thế kỷ.  Người dân ở đây có thể là ḍng tộc họ Mai vẫn hàng năm nhớ ngày cúng tổ tới đây dâng hương kỷ niệm.   Từ chân núi Nhân Sơn, đi theo quốc lộ 10 đi hơn  một cây số vào phía bên phải ngay qua cánh đồng Chưa là đến làng Thành  làng  Hà . Hai làng này vẫn có những  thửa ruộng  đất cát của băi biển, nơi đây vợ chồng An Tiêm đă trồng  trái dưa hấu.  Thứ dưa hấu tṛn bằng chiếc tô, vỏ xanh đậm,  ruột đỏ thẫm.  Cứ năm nào cũng thế, đến mùa hè, người trong vùng lại được thưởng thức món dưa này.  V́ đất cát thiếu màu mỡ, dân hai làng này thường đi tới những làng lân cận để kiếm phân trâu, phân ḅ cho ruộng nương  tươi tốt.

 
   

3-    Chứng tích động Thiên thai

                 Từ thức  kết duyên cùng tiên nữ Giáng Hương

Theo truyện th́  th́ chiếc động Thiên thai này khi xưa ở ngoài biển khơi cửa Thần Phù, xa nhưng không xa tít mù như nơi An Tiêm bị đi đầy.   Từ Thức  trong lúc ngao du đă cặp thuyền vào một ḥn đảo, nơi đây chàng đă  điược đón vào động tiên  gặp tiên nữ Giáng Hương.

Thế mà  nay cái động tiên đó đă nằm trong đất liền sau bao thế kỷ  sông Hồng và  sông Đáy  đem đất phù sa  đến  bồi đắp và phủ đầy cửa biển Thần Phù.

  Động nằm trên địa bàn xă Nga Thiên huyện  Nga Sơn ngay quốc lộ số 10 chạy từ Thanh Hóa  về Nga Sơn  qua Điền Hộ ( xă Nga Điền)

 

Cửa vào Động, có một miếu nhỏ gọi là miếu Sơn Thần, ngay cửa Động trên vách đá có tạc  một bài thơ của Lê Quư Đôn khi ông tới viếng Động vào thế kỷ 17

  Theo Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia: Ngoài cửa Động có một  miếu nhỏ,  chỉ chấm đầu người, không rộng.

 Suốt chiều sâu của Động, có rất nhiều thạch nhũ tạo nhiều h́nh thù độc đáo và được gắn liền với truyền thuyết về Từ Thức và Giáng Hương

Động chính gồm có hai phần, phần ngoài rộng, trần Động h́nh ṿng cung như một chiếc bát úp khổng lồ.  Phía dưới ṿng cung đó, có một nhũ đá tỏa xuống trông như trái đào tiên, nên Động c̣n được gọi là Động Bích Đào.  Dưới là nền đá phẳng, nhẵn là vết tích đền thờ Từ Thức c̣n lưu lại tới nay.  

Sau đó là  đụn nhũ thạch lấp lánh được ví như những kho chứa khác  nhau:

-kho tiền là những  chỗ   thạch nhũ xanh nổi h́nh tṛn từng lớp chồng lên nhau

-Kho  vàng là những thỏi đá óng ánh màu vàng

-Kho muối là một quần thể thạch nhũ bé, trắng toát

 Kho gạo lại hấp dẫn hơn bởi những ḥn đá mịn, gắn chặt, đều màu nâu nhạt.

 

Vào phần trong, một cỗ tam sinh có đủ trâu dê, lợn, một mâm  cỗ  tương đối giống như thật, một mâm ngũ quả bằng đá được thiên nhiên bày sẵn từ muôn đời tới nay. Càng vào sâu, ḷng động càng rộng ra, với nhiều dấu tích về t́nh yêu của  Giáng Hương và Từ Thức, như:

  - buồng tắm của Giáng Hương và thư pḥng của Từ Thức bằng đá.

  - Những bông hoa, những quả đào tiên, vầng trăng và có cả  những đôi chim thạch nhũ. Những thanh đá thiên cầm gơ vào sẽ phát ra những âm thanh khác nhau được gọi là dàn chiêng trống.

Đi sâu vào trong, có hai dấu chân người in sâu vào đá từ bao giờ, tương truyền là dấu chân của Từ Thức.  Một vài nụ đá và một vài  đường nét trên mặt đá phẳng  tạo thành bàn cờ tiên.  Đôi g̣ bồng  đảo đầy quyến rũ bên một vũng  nước trong suốt có thể nh́n thấy những ḥn đá dưới đáy, là giếng mà  tiên nữ Giáng Hương từng tắm với nụ cười làm đắm say kẻ phàm trần.  Một giải đá màu lục lốm đốm, cùng một giải có những h́nh thù  ếch nhái, là ao bèo trong sự tưởng nhớ quê hương của chàng thư sinh Từ Thức. Sau cảnh này là một ngă rẽ, một ngă theo  tương truyền là đường lên cơi tiên của Từ Thức.  Tại đây có quán nghỉ chân bằng đá mà chàng đă từng nghỉ suốt dọc hành tŕnh và c̣n đó những mắc treo áo, treo mũ bằng đá. Bên cạnh đường lên tiên là một  ngă rẽ hỏm sâu theo đường xoáy ốc vẫn bí ẩn từ muôn đời, người ta quen gọi đường xuống địa ngục.

 
 

 

 

   4-  Chứng tích đền Áp Lăng Chân Nhân

                  tại  Thôn Nhân Phẩm, tổng Thần Phù huyện Yên Mô:  

 Đền này thờ vị Đạo sĩ  có  phép màu khiến sóng gió cửa  biểnThần Phù yên lặng.  Về chứng tích này, có ba truyền thuyết khác nhau.

Truyền thuyết thứ nhất:

  Theo Minh Lương thi tập,    th́ vị Đạo Sĩ  họ La, tên húy là Viên, là người xă Nhuệ  Trại, huyện Thần Kênh nay là huyện Hậu Lộc, sống  thời Hùng Vương.  Khi Vương  đi đánh phương Nam, đến cửa biển Thần Phù bị gió ngăn trở đến hơn một tháng, Vương  bèn trai giới, rồi sai Viên cỡi thuyền đi trước, do đấy biển không nổi sóng. Khi trở về, Viên mất dọc  đường, vương hạ chiếu phong là Áp Lăng  Chân Nhân, lập đền thờ ở phía nam cửa biển Thần Phù, cho số quân mà Viên đă thống  suất khi trước, ở lại đấy phụng thờ, tức là các thôn Nhân Phẩm, Phù Sa, và Anh  Tụy tổng Thần Phù bây giờ.

 

Truyền thuyết thứ  hai:

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí tập 3 trang 275:  th́ đời Lê Quang Hưng (1578-1599)  quan quân đi đánh giặc nhà Mạc, qua cửa biển Thần Phù gặp sóng gió, chợt thấy một ông già đầu tóc bạc, chèo chiếc thuyền nhỏ, thuyền đi đến đâu, sóng gió im đi đến đấy, có lẽ là do thần hiển linh giúp sức, v́ thế vua cho xây  đền thờ, và cho thôn Nhân Phẩm được thu tiền đ̣ ngang để phụng thờ.

 
 

 

 Truyền thuyết thứ  ba

   Theo cuốn Nam Ông Mộng Lục của Hồ NguyênTrùng (1374?-1446?) chương 13   th́   đời Tống  Nhân Tông, vua  Nhà Lư nước An Nam  tự mang quân, mang thuyền đi đánh Chiêm Thành.   Khi tới cửa biển Thần Đầu, sóng gió nổi lên hết ngày này sang ngày khác, không thể vượt biển được. Vua nghe ở núi gần đấy có người đạo sỹ, một ḿnh sống  trong am, bèn cho vời đến để khẩn cầu.  Đạo sĩ nói: Vua  tự có phúc lực, thần cam đoan muôn một không có ǵ đáng lo. Ngày mai cứ việc lên đường chớ sinh ḷng nghi ngại.

Nửa đêm trời  dừng gió. Sáng sớm khi ra tới ngoài biển, nh́n xa thấy sóng gió cao như núi, nhưng đoàn thuyền đến đâu th́ sóng gió yên lặng đến đó. Bấy giờ lại thấy vị đạo sĩ đang bước đi trên mặt nước, lúc ở đàng trước, lúc ở đàng sau, trông rất rơ ràng, duy người không thể đến gần được.

Ngày quân trở về tới núi Thần Đầu, đạo sĩ ra nghênh tiếp. Vua mừng và úy lạo.  Đạo sĩ nói: Thần biết vua phúc trọng, không có ǵ đáng lo, ấy là nhờ thần linh giúp đỡ, chứ không phải hạ thần này có tài cán ǵ. Vua càng lấy làm lạ, phong cho hiệu  Chân Nhân đè sóng Lại ban thưởng nhiều vàng lụa, đạo sĩ không nhận. Sau đó đạo sĩ vào núi rồi không biết đi đâu.  Chân nhân họ La không rơ tên.

 
   

    5-  Chứng tích   Cây Thập Tự Gíá trên núi Hảo Nho

    Ngày  12 tháng 3 năm 1627  hai Linh mục Alexandre de Rhodes và  P. Marquez từ Ma Cao qua cửa Thần Phù  bị băo táp dạt vào  cửa Bạng Thanh Hóa.  Trong thời gian này linh mục Marquez dựng  cây Thập tự Giá trên núi Hảo Nho  huyện Yên Mô.    Hai tháng sau, Chúa Trịnh trên đường đi đánh Chúa Nguyễn về, thấy  cây Thập tự Giá trên núi Hảo Nho, liền mời hai linh mục này tới và dẫn về  Thăng Long. Chúa xây cất một căn nhà ở gần phủ  cho hai vị và cho phép tự do giảng đạo.     

    6-  Chứng tích  lịch sử :   Thần Phù cửa biển chiến lược.

Theo sử sách  chép  rằng:    sau khi vua  Duệ Tông tiến đánh Chiêm Thành bị tử nạn,  th́ quân của Chế Bồng Nga thừa thắng  xông lên đưa quân ra chiếm nước ta. Vào 11/6/1377  năm Đinh Tỵ, quân Chiêm Thành   thấy cửa Đại An  của Sông Đáy thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh B́nh và huyện Nghĩa Hưng, t́nh Nam Định.được  lệnh vua Trần Dụ Tôn  canh gác kỹ lưỡng, nên đă xua quân vào  ngả cửa Thần Phù ( song Chính Đại huyện Yên Mô tỉnh Ninh B́nh ngày nay) để  tiến chiếm kinh thành Thăng Long khiến vua Trần Dụ Tôn  bỏ trốn.

7-  Chứng tích  Chợ  Hồ Vương và   Đường Hồ Vương

  1/-  Chợ  Hồ Vương 

Địa danh chợ Hồ Vương nằm ở vùng thuộc hai làng Liên Qui và Lạc Nghiệp, hiện nay ở vùng giáp ranh hai xă Nga Liên và Nga Thành. N ăm 1951 thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chợ Hồ Vương nhập vào chợ Hói Đào, và từ đó đến nay, chợ Hói Đào vẫn tồn tại ờ  xă Nga Liên, c̣n chợ Hồ Vương chỉ c̣n lại trong trí nhớ của những người lớn tuổi

Tên gọi Hồ Vương gắn liền với sự kiện thuyền của  Hồ Quư Ly bị mắc cạn trên đường đưổi giặc ra biển, chiến thuyền của  Hồ Quư Ly bị mắc cạn ở băi bùn.  Dân họ Thịnh ( nay thuộc  xă Nga  Hải) thấy những chiến thuyền không ra biển được, liền  tập trung lại đào bùn cát, tạo thành một con ng̣i cho nước chảy vào. Nhờ vậy thuyền nổi lên được và kéo ra biển. Sau trở về, Hồ Quư Ly miễn sưu thuế cho dân họ Thịnh  ( sau đổi tên thành họ Mai) để ghi nhớ công lao cứu thuyền mắc cạn

  Nhà Nguyễn  phong sắc cho sự tích Hồ Vương, và v́ ḍng họ Thịnh ( Mai) có gia phả ghi lại sự kiện ông tổ họ Thịnh có công  trong việc này, nên họ Thịnh xă  Nga Hải ngày nay được lưu giữ sắc phong Sự tích Hồ Vương

 
 

 

        2/-  Đường Hồ Vương

  Tên gọi Hồ Vương  không chỉ gắn với chợ, mà c̣n gắn với Đường Hồ Vương. Con  đường  từ bến Tín  sông Hoạt thuộc xă Nga Thiện, thẳng ra biển qua các xă  Nga Giáp, Nga Hải, Nga Thành, Nga Liên  ( nơi có chợ Hồ Vương) dài gần 6 km mang tên Đường Hồ Vương

Con  đường  Hồ Vương  được nối tiếp với đường  chợ Hói Đào.   Qua điều tra hồi cố , con  đường   này theo mạch đường rút quân của  Hồ Quư Ly có liên quan đến Đồi Hồ thuộc xă Nga Thiện, do đó được truyền  gọi là  Đường Hồ Vương

 3/-    Đồi Hồ

Trong quá tŕnh khảo sát  các vùng Nga Điền, ngă ba Chính Đại, nơi có  mộ  Áp Lăng Chân Nhân, th́ được biết  những vùng này chính là nơi mà Hồ Quư Ly đă từng tổ chức nhiều trận  đánh quân  xâm lược Chiêm Thành. Tương truyền nơi đóng quân của Hồ Quư Ly là  Đồi Hồ. Tên Đồi Hồ khá quen thuộc với người dân quanh vùng, nhưng không mấy ai biết đến gốc tích của  quả đồi.

 
 

Đồi Hồ thuộc xă Nga Thiện, nằm ở cuối dẫy núi Từ Thức, kề bên tả ngạn sông Hoạt, sông tiếp với sông Chính Đại. Với độ cao khoảng 20 m, diện tích hiện nay khoảng trên dưới 0,30  ha.  Theo truyền thuyết, vua Nhà Hồ đă cho quân lính san phẳng ngọn đồi biến thành nơi đóng quân
Có m
ột đêm Hồ Quư Ly rút quân  vào phía nam. Hướng rút quân   này tương ứng với  con đường Hồ vương  ngày nay.

Từ vết tích Đồi Hồ ở đây, kết hợp với thành Quảng Công của Hồ Quư Ly ở huyện  Tam Điệp  ngày nay, chúng ta có thể nghĩ đến một hệ thống đồn thành chống giặc của Nhà Hồ đă xây dựng ở vùng cửa ngơ chiến lược phía đông bắc Thanh Hóa tức cửa biển Thần Phù.


Qua g
ần  6 thế kỷ, bao triều đại đă từng làm phai mờ sự nghiệp của Hồ Quư Ly và Nhà Hồ.   Sự tích Hồ Vương,  Đường Hồ Vương, Chợ Hồ Vương từ bao đời nay vẫn được nhân dân  vùng Nga Sơn ghi nhớ v́ nó gắn liền với hoạt động của vương triều Hồ trên đất Thanh Hóa.   Bia miệng về Hồ Vương vẫn tồn tại và sống măi trong ḷng người dân Nga Sơn

 
   

  8-  Chứng tích   Chiến Luỹ   Ba Đ́nh

    Ba Đ́nh  là ba cái đ́nh ở ba làng   Thương Thọ, Mẫu Thịnh và Mỹ Khê.   Ba Đ́nh bây giờ là một xă của huyện Nga  Sơn.  Đây là căn cứ chiến  thuật, chiến lược của nghĩa quân chống Pháp do Đinh Công Tráng đă lập, nằm dọc theo sông Chính Đại.  Chiến lũy  này nằm dưới thung lũng, chỉ cần phá đê là nước tràn vào  chiến luỹ.    Chiến luỹ Ba Đ́nh đă một thời (1886-1887) làm cho quân Pháp chịu nhiều tổn hại. Đia thế Ba Đ́nh hiểm trở, kiên cố trong hào ngoài lũy khiến quân Pháp tấn công hai lần đều bị tổn thương và thất bại. Cuố cùng, quân Pháp phá đê, nước tràn ngập  chiến luỹ khiến nghĩa quân phải bỏ chạy.  Trong trận này  Đinh công Tráng tử trận, nghĩa binh rút  về Mă Cao miền thượng du tỉnh Thanh Hóa, rồi tan ră.

B-Thơ văn vịnh cửa Biển Thần Phù

Nguyễn Trăi tham gia vào  cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lănh đạo chống lại Minh thuộc. Ông  là  vị  tham mưu  cao cấp bày mưu tính kế  cho nghĩa quân.  Ông có nhiều bài thơ vịnh cửa Biển Thần Phù.

 Xin trích  hai bài thơ của ông  có liên hệ  đến  mặt chiến thuật chiến lược của cửa Biển Thần Phù

    Bài thơ Quan Hải

 

              Thung mộc  trùng hải lăng tiền,

              Trầm giang thiết tỏa, diệc đồ nhiên.

               Phúc  chu thủy tín dân do thủy,

               Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.

              Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,

             Anh hùng di hận kỷ thiên niên.

             Kiền khôn kim cổ vô cùng y,

              Khước tạiKhương Lang viễn thụ yên

 

Dịch nghĩa

 

              Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển,

              Khóa sông xích sắt cũng vậy thôi.

              Lật thuyền mới rơ dân như nước,

              Cậy hiểm khôn xoay mệnh ở trời.

               Hoạ phúc gây mầm không một chốc,

              Anh hùng để hận mấy trăm đời,

              Vô cùng trời đất  gương kim cổ,

              Cây khói xa mù bát ngát khơi.

 

Trong bài thơ  này,    Nguyễn Trăi nhắc tới chiến thuật cắm cọc trên cửa biển  Thần Phù bằng những loại gỗ lim để ngăn sự xâm nhập và tiến quân của nhà Minh,  theo lệnh Hồ Quư Ly. Quân đội nhà Minh của đế   quốc Trung Hoa xâm lăng lănh thổ ta vào thế kỷ 15.

Bài thơ Lâm Cảng  Dạ  Bạc

Cảng khẩu thích triều tạm hệ đao,

Am am cách ngạn hưởng bồ lao.

Thuyền song khách dạ tam canh vũ

Hải khúc thu phong thập  trượng  đào.

Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,

 Mộng trung phù tục sự kham phao

Nhất sinh khí tập hồn như tạc

Bất vị kỳ sầu tổn cựu hào.     

 
    

Dịch nghĩa

 

 Cửa lạch nghe triều buộc tạm thuyền,

 Cách bờ văng vẳng tiếng chuông  chiền.

Song bồng đêm khách mưa ŕ ră,

Vụng biển hơi thu sóng đảo điên.

Danh hăo ngoài da, thân huyễn huyễn hoặc,

Kiếp trần trong mộng , chuyện huyên thiên.

Một đời quen nết chưa chừa được,

Xiêu giạt nào hao khí thiếu niên

 

   Trong  bài thơ này, Nguyễn Trăi tả cảnh  Lạch Lâm Cảng  nối Của biển Thần Phù và  xă Lâm Ngọc vào những buổi chiều  khi ông  dừng thuyền ở đó.   Lâm Cảng là nơi Hồ Quư Ly áp dụng chiến thuật chiến lược chống quân Minh.  Chắc hẳn  Nguyễn Trăi hay  ra ngắm  cảnh Lâm Cảng  cũng cùng một mục đích  như Hồ Quư Ly,  trong thời gian ông làm tham mưu cho Lê Lợi chống Nhà Minh xâm lược  chăng!

    Biên  soạn:     tác giả PXK

Tài liệu lấy từ  cuốn sách:  

                   "Làng tôi tại cửa Thần Phù " của Tác Giả Trần Khánh Liễm