Đất Nam Bô được hình thành thể nào ?
Nam Bô xưa được cấu tạo nhờ vào đất bồi của sông Mekong chảy từ Tây tạng Sông Mekong từ cao độ 5.224 m (17.139 ft) chảy vào Trung Quốc. Khi rời Trung Quốc độ cao của nó chỉ còn khoảng 500m so với mực nước biển. Khi tới cực nam Lào tại tỉnh Champasack, thì thác nước Khone của nó chỉ còn cao 18 m khá hùng vĩ và gần như không thể vượt qua đối với giao thông bằng đường thủy. |
||
Sông Mekong một đàng qua Biển Hồ Ton Lê Sáp và Nam Vang vào Việt Nam tại Châu Đốc với hai dòng sông Tiền Giang và dòng sông Hậu Giang ( Bassac) vĩ đại, đàng khác qua ngả tỉnh Svay Rieng và tỉnh Prey Veng vào Việt Nam với hai dòng sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây.Cả bốn dòng sông này bồi đất cấu tạo nên Nam Bô ngày nay. I- Sông Cửu Long Vào nội địa Việt Nam, sông Mekong với hai dòng sông Tiền Giang và dòng sông Hậu Giang mang tên Sông Cửu Long
vì Sông Tiền Giang đổ ra biển bằng sáu cửa: -cửa Đại, -cửa Hàm Luông -cửa Tiểu, -cửa Cổ Chiên -cửa Ba Lai. - cửa Cung Hầu Và vì Sông Hậu đổ ra biển bằng ba cửa là -cửa Định An, -cửa Bát Sắc (Bassac) và -cửa Trần Đề, Chính vì vậy, tổng hợp chín cửa của Sông Hậu và Sông Tiền mà có tên Sông Cửu Long. Sông Cửu Long bắt đầu từ Châu Đốc II- Sông Vàm Cỏ Sông này gồm có Sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây , Chúng hợp nhau ở Tân Trụ, rồi đổ ra biển qua cửa Xoài Rạp |
||
![]() Sông Vàm Cỏ Đông, nhánh sông Mekong chảy từ tỉnh Prey Veng biên giới Việt Nam-Campuchia vào huyện Châu Thành Tây Ninh rồi chảy vào các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Cần Đước Long An. Sông Vàm Cỏ Tây, nhánh sông Mekong chảy từ tỉnh Svay Rieng biên giới Việt Nam-Campuchia đổ vào rạch Cái Cỏ rồi đổ vào rạch Long Khốt tại huyện Vĩnh Hưng. Đó là đoạn thượng nguồn của sông Vàm Cỏ Tây. Trong lãnh thổ Việt Nam sông Vàm Cỏ Tây được tính từ rạch Long Khốt, chảy qua các huyện Vĩnh Hưng, Tân Thạnh, Tân Hưng, Thạnh Hóa, Thủ Thừa, Tân Trụ, Cần Đước, Châu Thành và Thành phố Tân An của tỉnh Long An. Sông Vàm Cỏ Tây cùng với sông Vàm Cỏ Đông hợp thành sông Vàm Cỏ ở Tân Trụ, rồi đổ ra cửa Xoài Rạp
SôngCửu Long và Sông Vàm Cỏ cùng nhau suốt mấy chục thế kỷ đã tạo ra Đồng Bằng Nam Bộ ngày nay. |
Nam Bô xưa kia = thuỷ Chân Lạp, một thành phần của Nước Chân Lạp. Vào năm 68 tây lịch, v ị trí của nó chỉ mới ở tại Oc Eo Ba Thê thuộc tỉnh An Giang ngày nay . Đất Nam Bộ ( Thuỷ Chân Lạp ) suốt thời kì thuộc nước Chân Lạp thì bị bỏ hoang vì dân cư quá ít mà họ lại quen sống ở những vùng đất cao, không thích làm những ruộng trũng. Những vùng đất cao đó người địa phương kêu là Giồng và Gò, chẳng hạn xã Giồng Trôm, quận Gò Vấp. Vả lại thời đó đất Nam Bộ hầu như toàn là những vũng bùn, sình lầy mà những con Đỉa hút máu no thì to bằng ngón chân cái, nước thì đầy phèn chua, hơi nước hôi thối và đáng sợ. Thời đó, sức nóng của mặt trời thì gay gắt. Ngày thì nắng và đỉa, đêm thì lạnh và muỗi . Muỗi nhiều bu lại vo vo châm chích, mở mắt không được, há miệng cũng không xong. Bụi lau, sậy, năng cao hơn đầu người, làm sao mà quyến rũ con người sống được ở những vùng sình lầy như vậy, ai cũng phải sợ. |
||
Một vùng hoang dã nhất của đất Nam Bộ chính là vùng Đồng Tháp Mười ngập lụt thường xuyên. Địa giới của nó tính từ Châu thành Tân An, ngược sông Vàm cỏ Tây lên tới Gò Bắc Chiêng rồi Svay-riêng rồi qua phía Tây theo kình Cái Cỏ, rạch Sở Hạ , xuống Hồng Ngự xuôi Tiền giang tới Bắc Mỹ Thuận, ngang Cai lạy về Tân An . Vùng Đồng Tháp Mười : phía đông có Châu Thành Long An, phía Bắc có quận Mộc Hóa và châu thành Svay-riêng, phía Tây có quận Hồng ngự, phía nam có quận Cao lãnh, quận Nhà Bè và chợ Cai lạy
Nhiều nhà địa lý cho rằng Đồng Tháp mười gồm cả ở phía đông sông Vàm Cỏ Tây và tới tận bờ sông Vàm cỏ Đông Đất Nam Bộ hầu như bị bỏ hoang cho tới thế kỉ XVII, thời kì mà các Chúa Nguyễn đem dân Ngũ Quảng vào khai hoang và làm ruộng trũng . Tuy nhiên, muốn khai hoang kết quả thì phải khai phá những vùng đất bỏ hoang .
III - Khai hoang đất Nam Bộ : Đào Kênh Rạch và Xây dựng Đường Bộ,Đường Sắt
1- Đào Kênh Rạch
Năm 1705, dưới thời Chúa Nguyễn, tướng Nguyễn Cửu Vân trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An), khai khẩn đất hoang đào kinh cho rạch Vũng Gù ăn thông sang rạch Mỹ Tho, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang. Chính vì muốn khai hoang, nên Vua Gia Long cho lệnh đào kênh. Theo lệnh vua Gia Long, ông Thoại ngọc Hầu đào kinh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên thông ra vịnh Thái Lan. Kênh dài hơn 87 km, từ năm 1819-1824 . Kế tiếp ông đào kênhThoại Hà nối Long Xuyên với Rạch Giá chạy ngang qua núi Sập dài 40km. Kênh khởi công vào đầu năm 1818 nối rạch Long Xuyên ở Tam Khê với hệ thống thủy đạo ở Rạch Giá .. Nhờ đào theo lạch nước cũ nên công việc khá thuận lợi, một tháng đã hoàn thành kênhThoại Hà với bề rộng 51,2 m, chiều dài 31, 744 km.
Đến thời Pháp thuộc, chính phủ Pháp tiếp tục đào thêm kênh nhằm hai mục đích: mở thêm đường thuỷ giao thông và thau chua rửa mặn để thoát phèn cho các cánh dồng trồng lúa. Pháp sử dụng phương tiện đào kênh hiện đại (xáng múc, tàu cuốc)
Ở hữu ngạn Sông Hậu Pháp đào, mở rộng, khai thong và nạo vét các kênh sau đây:. - kênh Hà Tiên (Hà Tiên - Châu Đốc); -kênh Rạch Giá (Rạch Giá - Long Xuyên) -kênh Xà No (Cần Thơ - sông Cái Lớn- vịnh Rạch Giá) nối Cần Thơ - Hậu Giang - Kiên Giang - Bạc Liêu - Cà Mau mở ra một triển vọng vựa lúa ở Hậu Giang. -kênh Bạc Liêu - Cà Mau nối với rạch An Xuyên; - kênh Bãi Xàu - sông Hậu -kênh Cần Thơ - Sóc Trăng, - kênh Sa Đéc - Trà Vinh.
Ở khu vực giữa sông Tiền - sông Hậu Pháp đào, mở rộng, khai thông và nạo vét các kênh sau đây -kênh rạch Vàm Nao - kênh rạch Cái Tài Thượng, -kênh rạch Lấp Vò (sông Tiền - Sa Đéc), -kênh rạch Măng Thít (Rạch Giá - Cà Mau) |
||
Ở tả ngạn Sông Tiền Pháp đào, mở rộng, khai thông và nạo vét các kênh sau đây: - kênh Bảo Định nối Mỹ Tho với Vàm Cỏ Tây, nối với Vàm Cỏ Đông qua rạch Bo Bo , nối với Sài Gòn - Chợ Lớn qua rạch Bến Lức; - kênh Chợ Gạo (còn gọi là kênh Duperré) nối MỹTho qua Chợ Gạo tới Vàm Cỏ Đông thông với Sài Gòn qua kênh Rạch Cát nối t rạch Kỳ Hôn đến Sông Tra, một nhánh ngắn của sông Vàm Cỏ . -kênh Bến Lức, -kênh Trà Ôn -Các kênh số 4. 12 25, 26, 27, 28 -Kênh Lagrange -Kênh Lấp Vò , -Kênh Măng Thít, -Kênh Đá Biên Cho đến năm 1936, Pháp đã cho đào 1360 km kênh chính, 2.500 kênh phụ và hàng ngàn km kênh nhỏ |
Tư nhân đào kênh Ngoài các kênh vua Gia Long ra lệnh đào và chính phủ Pháp chủ trương đào, cũng có một số kênh rạch do tư nhân xin phép đào . Kênh Tổng Đốc Lộc là do chính Trần Bá Lộc bỏ chi phí ra đào từ khâu lên kế hoạch, thiết kế đo đạc, thuê mướn nhân công..v.v…thực dân Pháp chỉ đồng ý cho Lộc huy động dân phu. mới trong vùng này Kinh rộng 10m, dài 47km từ Rạch Bà Bèo phía bắc Cai Lậy tới rach Ruộng ở địa giới hai tỉnh Vĩnh Long Sadec. Kênh này làm thành ranh giới giữa Vĩnh Long và Sa Đéc vậy Cùng đó là một số điền chủ tư nhân đầu tư đào những kênh nhỏ nối vào các kênh chính để phục vụ cho sản xuất nông nghiêp riêng cho mình |
||
Thành quả của chính sách đào kênh rạch Nhờ vào các kênh đào lớn nhỏ, nước ở những vùng ngập nước thoát đi, thoát nạn ngập lụt. Nhờ vào các kênh đào lớn nhỏ, các cánh đồng bao la giải thoát được các chất phèn đến mức tối đa. Đất chứa phèn ở Đồng Tháp Mười rất trầm trọng vì vùng đó có những tầng phèn đỏ nhiều chất sắt nước đỏ như gạch đến nỗi rong mọc không được, tầng phèn xanh có chất alumin, và tầng phèn nước trong vắt nhưng nhiều chất acid, đổ nước cốt trầu đương đỏ biến ra trắng.. Các chất phèn thoát đi, các cánh đồng đón nhận nước ngọt từ sông Mekong chảy qua sông Cửu Long vào ruộng, và từ trời mưa xuống ruộng.. Nhờ có kênh rạch đào nhiều, mà chỉ nguyên vùng Đồng Tháp Mười cung cấp gần triệu mẫu tây đất ruộng tốt đẹp mầu mỡ đầy phù sa t ừ nguồn sông mang tới, đầy phân than tự nhiên từ các cây tràm thối nát từng bao thế kỷ . Những mẫu đất phì nhiêu này cung cấp cho nông dân trồng lúa dư thừa thóc gạo nuôi dưỡng mọi người dân nước Việt thân thương. Nhờ vào các kênh đào lớn nhỏ, mà hệ thống đường thuỷ mở rộng, Các kênh rạch cùng với bốn con sông Tiền Giang , Hậu Giang , Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông tạo ra hàng trăm con sông phụ lưu trong vòng hơn một trăm năm qua. Hệ thống giao thông đường thuỷ này chuyên chở phần lớn hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp đi khắp các vùng lớn nhỏ của đất Nam Bộ. Chính hệ thống giao thông đường thuỷ tạo nên các cảng sau đây:
Cảng Sài Gòn Sài Gòn là cảng tốt, đường vào cảng sâu gần 15 m. Tàu bè t ừ các sông lớn ra vào điều hòa dễ dàng . Cảng Sài Gòn là mối liên kết và giao lưu sông rạch, là mối liên kết với hệ thống các chợ . Nó là nơi tập trung lúa gạo để xuất đi khắp Nam Bộ.
Cảng Ba Son, Cảng lập tháng 4/1863, thời Nguyễn Ánh, ở đầu rạch Thị Nghè. Cảng có lập một xưởng đóng tàu lớn. Chúa Nguyễn Ánh thuê kỹ sư hải quân Pháp, Bồ Đào Nha đóng tàu thuyền thương mại và tàu thuyền quân sự. Nhờ đó Chúa Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây Sơn.
Cảng Bãi Xàu Cảng ở Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) hoạt động vào khoảng những năm1772 -1778. Nơi đây thương lái Hoa chuyển nông sản sang nước ngoài.
Cảng Vàm Nao : Cảng nằm ở vùng tỉnh An Giang. Cảng thu mua lúa gạo địa phương. Cảng này tàu thuyền khó vào vì cửa sông quá hẹp
Cảng Mang Khảm (Hà Tiên) Cảng này thông qua hệ thống kênh rạch chằng chịt. Người Hoa lập nhiều kho hàng lúa gạo và các nông sản (thốt nốt, tiêu…) từ sông Tiền, sông Hậu để xuất khẩu vào Chân lạp.. |
||
2- Xây dựng Đường Bộ
Để hỗ trợ việc đào kênh rạch, Chánh Quyền Thuộc Địa Pháp cho xây dựng 3000 km Đường Bộ để chuyên chở nhân công , chuyên chở dụng cụ cơ khí, chuyên chở lương thực tiếp tế. Ngoài ra Đường Bộ cũng nhằm mục đích đễ kiểm soát an ninh xã hội, mở mang sự giao thông vận tải, sự đi lại của mọi người trong mọi lãnh vực. Đây là một số đường bộ được xây dựng lúc đầu
-Sài Gòn - Mỹ Tho xây dựng sớm nhất được khởi công năm 1866, đến năm 1880 thì hoàn thành
-Sài Gòn - Biên Hòa, Thủ Đầu Một -Sài Gòn - Tây Ninh, - Tân An - Gò Công; Gò Công - Mỹ Tho; Mỹ Tho - Vĩnh Long; -Trà Vinh - Tiểu Cần; -Bạc Liêu - Sóc Trăng - Cần Thơ - Long Xuyên - Mỹ Tho – Gò Công qua chợ Gạo năm 1895 -Hệ thống đường hàng tỉnh : Trà Vinh, Cần Thơ, Long Xuyên, Sa Đéc; Vĩnh Long, Bến Tre, Châu Đốc, Mỹ Tho, Hà Tiên, Sóc Trăng, Rạch Giá. -Hệ thống đường liên tỉnh ở Nam Bộ nối Sài Gòn với Lục tỉnh, gồm: đường số 13, 14, 15 và 16.
Riêng ở Sài Gòn, năm 1865 có khoảng 20 con đường được xây dựng, đến năm 1878 có thêm 28 con đường mới. |
3- Đường sắt
– Sài Gòn– Mỹ Tho đầu tiên vào năm 1881 dài 71 km. từ đường Hàm Nghi qua công trường Quách Thị Trang vòng qua đường Cống Quỳnh, đi xuống gặp đường Hùng Vương), đường Hồng Bàng qua khu Thuận Kiều Plaza xuống Phú Lâm, An Lạc, Bình Điền, Bình Chánh, qua Gò Đen, Bến Lức, Tân An đến Tân Hương, Tân Hiệp, Lương Phú, Trung Lương và Mỹ Tho
- -Sài Gòn – Hớn Quản – Lộc Ninh dài hơn 100km được xây dựng để phục vụ cho đồn điền cao su ở miền Đông.
- Sài Gòn – Khánh Hòa dài 408 km, khởi công từ năm 1900 , hoàn thành từng chặng: Sài Gòn – Xuân Lộc ; Xuân Lộc – Gia Rai; Gia Rai – Mương Mán và Mương Mán – Nha Trang được đưa vào khai thác từ 16/7/1913. Sài Gòn – Biên Hòa -Đường sắt nội ô Sài Gòn, nối cảng Khánh Hội, Nhà Rồng,Ga Sài Gòn và ga Hòa Hưng. 4- Đường hàng không Đến năm 1913, Pháp khánh thành đường bay từ Sài Gòn đi Phnôm Pênh. Đến năm 1930, Pháp trưng dụng vùng đất cao Tân Sơn Nhất, cách trung tâm thành phố 6 km để làm sân bay. Ngày 17/01/1931, chuyến bay thương mại đầu tiên chở khách theo tuyến Marseille – Damas – Saigon. |
||
IV- Ca Dao Nam Bộ phẳn ảnh thời đất bỏ hoang & thời đất sau khai phá xong
1/ Thời đất bỏ hoang
Tháp Mười
sinh nghiệp phèn chua
2/ Thời sau khai hoang ( đã đào kênh rạch, xây dựng hệ thống giao thông thủy bọ
-Gạo
Cần Đước,
nước Đồng Nai
-Tôm
rằn
bóc vỏ bỏ đuôi
-Mẹ
mong gả thiếp về vườn,
-Muốn ăn Bông Súng mắm kho, Thì vô Đồng tháp ăn no đã thèm.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm. |
||
-
Bạc
Liêu
nước chảy lờ đờ
-Đồng
Nai
gạo
trắng
nước
trong
-Ai về
Gia Định
thì về
-Biên
hoà
bưởi
chẳng đắng the
Cần Thơ
gạo
trắng nước trong
-Vịt
nằm
bờ mía
rỉa lông |
V- Tình trạng bất ổn hiện nay của Đồng bằng sông Cửu Long của đất Nam Bộ Từ Phnôm Pênh, sông Mekong chia thành 2 nhánh bên phải là sông Hậu Giang (Bassac trước khi sang VN) và bên trái là sông Tiền Giang chảy vào Việt Nam. Tại Việt Nam sông Mekong mang tên Sông Cửu Long Trong dòng chảy của sông Mekong, Trung Quốc đã đưa vào hoạt động các đập Mạn Loan , Đại Triều Sơn, Cảnh Hồng ,Tiểu Loan và Nọa Trác Độ "., kế tiếp Thái Lan có đập Pak Mun, trạm hút và cửa chắn nước rồi đến một loạt đập ngăn nước củaCampuchia và Lào đang xây dựng. Hàng loạt đập nêu trên nhằm trữ nước phục vụ thuỷ điện đem đến các hệ lụy sau đây.
1/ - Hạn chế dòng chảy của sông Mekong Theo các chuyên gia, thì đồng bằng sông Cửu Long vựa lúa xuất khẩu gạo lớn, phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước từ dòng sông Mekong, phải hứng chịu hậu quả nặng nề vì những con đập của Trung Quốc trên sông Mekong. Đồng bằng sông Cửu Long cần nước sông Mekong vào mùa hạn hán hàng năm từ tháng giêng cho đến tháng sáu, thời gian lúa đang phát triển. Đồng bằng cần nước sông Mekong đem lại nhiều lợi ích cho trồng trọt và thủy sản, chẳng hạn tưới cây, sản xuất lượng tôm cá dồi dào và rửa phèn cho đất lúa. Thế nhưng các đập thượng nguồn ở Trung Quốc không chịu xả nước, hoặc xả có giới hạn. |
||
a/- Thiếu nước cho nông nghiệp Ngay cả đến thời điểm Trung Quốc tuyên bố xả nước từ các đập thì nước trước khi về Việt Nam sẽ bị chặn lại hầu hết ở Thái Lan, Lào, Campuchia . Vì địa hình của Lào, Thái Lan, Cambodia có nhiều nhánh, nên theo Ông Lê Anh Tuấn (phó giám đốc Viện Nghiên Cứu Biến Ðổi Khí Hậu thuộc Ðại Học Cần Thơ) nhận định thì lượng nước thật sự về tới đồng bằng sông Cửu Long sẽ chẳng còn được bao nhiêu để giải quyết nạn thiếu nước cho nông nghiệp. Vả lại thời gian xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng (Jinghon), tọa lạc tại tỉnh Vân Namđập cuối cùng của Trung Quốc gần Lào nhất.) về tới đồng bằng sông Cửu Long phải mất khoảng nửa tháng xuyên qua khoảng cách 4,000 cây số, thì làm sao giải quyết được vấn đề cứu sống vụ lúa phát triển vào mùa hạn hán. - Lại tệ nữa là Trung Quốc không bao giờ cho biết sẽ xả bao nhiêu nước và phương thức xả (liên tục hay gián đoạn ). Họ chủ trương chỉ xả cầm chừng, theo ý họ mà thôi. Đấy là lý do thiếu nước cho nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long .
b/- Thiếu nước để chặn nạn Ngập Mặn làm cho lúa héo úa. Theo thông lệ, nạn hạn hán thường xẩy ra từ tháng 1 đến tháng 6, sau đó mới có thể có mưa. Trong những năm về trước, nạn hạn hán ít thành vấn đề nguy hiễm , vì nước nguồn từ sông Mekong tiếp tục chảy bình thường vào sông Cửu Long chế ngự nước mặn từ biển khỏi vào đồng bằng sông Cửu Long . Từ năm 2016 khi các đập thuỷ điện của Trung Quốc hoạt động tại thượng nguồn sông Mekong, không cho nước chảy xuống hạ lưu, thì có vấn để nước mặn. Khi hạn hán, thì nước biển xâm nhập sâu vào đất liền, khoảng 100,000 hecta ruộng hiện hữu khó mà trồng lúa, ít nhất là trong vụ Ðông-Xuân. Khoảng 16% diện tích đất trồng lúa bị ảnh hưởng bởi hạn hán và tác động của nước mặn trải rộng trên nhiều tỉnh ven biển: Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Cục Trồng Trọt từng cảnh báo nông dân ở những vùng cách cửa biển từ 25 cây số đến 35 cây số sẽ thấy nước mặn tác động đến ruộng của mình từ tháng 1 năm 2016 với nồng độ có thể lớn hơn mức 4 gram/lít. Từ tháng 2 năm 2016 trở đi, những khu vực này sẽ khó có thể lấy nước ngọt từ cửa sông. Ðến tháng 3 và tháng 4, những vùng cách cửa biển từ 40 cây số đến 65 cây số sẽ thấy nước bị nhiễm mặn với nồng độ 4 gram/lít. Thậm chí những vùng ở xa cửa biển hơn 65 cây số cũng cần cẩn thận vì tác hại của nước mặn khi thủy triều dâng cao. Thực tế hiện nay vì không đủ lượng nước, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đang bị nước mặn lấn sâu vào đất liền tới 70-90 km, làm hàng trăm nghìn ha lúa của người dân bị thiệt hại. 2/- Ngăn chặn dòng nước sông Mekong. chứa cát và phù sa chảy xuôi dòng Hệ lụy 1: giảm hoặc mất phù sa Sông Cửu Long lại nhận từ sông Mekong thượng nguồn phù sa cả ngàn năm để bồi đắp nên vùng đồng bằng châu thổ trù phú bậc nhất Đông Nam Á,.....với tất cả mọi sinh hoạt rất sống động và nhiều đặc sản tuyệt vời đầy thú vị và độc đáo. Thế nhưng các đập thượng nguồn ở Trung Quốc không chịu xả nước, hoặc xả có giới hạn, thì nguồn phù sa mất đi hoặc giảm tới mức tối đa, làm sao mà hoa mầu sinh hoa kết quả như trước được Hệ lụy 2: đất trồng lúa bị sụt, thiếu đất để canh tác Sông Cửu Long thiếu cát, sỏi, sạn bồi đắp cho đồng bằng, thì dầu chúng ta có rất nhiều sét, thịt, bùn thì chúng ta cũng không giữ nổi đất trồng lúa lại được, không định hình được đất đai trồng lúa vì đất bị đẩy hết ra biển.” Thực trạng ngày nay, vì các đập thuỷ điệnTrung Quốc hoạt động ở thượng nguồn sông Mekong chặn nước không cho chảy xuống hạ lưu, nên sông Cửu Long không đủ nước cát và phù sa cung cấp cho đồng bằng sông Cửu Long nên mặt đất sụt hàng ngày, Đồng bằng sẽ từ từ chìm xuống, ngập mặn.” |
||
Vấn đề quan trọng là trong khoảng hai thập niên gần đây, hiện tượng sạt lở ở đầu nguồn Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra nhanh hơn nhiều năm về trước, đặc biệt ở 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Tổng cục Môi trường cho biết, trên địa bàn tỉnh An Giang, khu vực ven sông Tiền có 13 điểm sạt lở, với cung trượt 2 - 30m/năm và 25 điểm sạt lở dọc bờ sông Hậu, mức độ sạt lở ngày càng tăng. Toàn tỉnh Đồng Tháp hiện có 99 điểm sạt lở với tổng chiều dài hơn 172 km, nhiều nơi sạt lở ăn sâu vào bờ đến 25m. Không chỉ ở đầu nguồn, sạt lở còn đe dọa nhiều địa phương khác như: Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau... Theo Tiến Sĩ Lê Anh Tuấn, hiện tượng xói lở và bồi lắng sẽ gia tăng hàm lượng bùn cát, độ đục trên sông, mất đất sản xuất và sinh sống của người dân. Rừng cây ven bờ và ven biển bị ảnh hưởng do xói lở và bồi lắng , nên thay đổi các hệ sinh thái khu vực, mất nơi lưu trú và nguồn thức ăn cho nhiều loài thực vật. Bài Sưu tầm của PXK |