|
Tổ Tiên nước Việt cư trú ở đâu ? Sử Việt đều chép rằng Ông Bà Lạc Long Quân và Âu Cơ là Thần Tổ của người Việt . Ông Lạc Long Quân là người của dân tộc Lạc Việt , mà Lạc Việt có quốc hiệu là nước Văn Lang và kinh đô là Phong Châu ( Phú Thọ). Ông Lạc Long Quân là biểu tượng của Lạc Việt . Bà Âu Cơ là người của dân tộc Âu Việt, mà Âu Việt có quốc hiệu là nước Thục. Bà Âu Cơ là biểu tượng của Âu Việt. Hai ông bà Lạc Long Quân và Âu Cơ kết hôn với nhau thành vợ thành chồng mà ông Thục Phán ( An Dương Vương ) làm chủ hôn. Vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ h́nh thành gia đ́nh Âu Lạc . Gia đ́nh Âu Lạc này chính là nước Âu Lạc có kinh đô là Cổ Loa ( Hà nội) Đâu là vị trí cơ sở của Lạc Việt và Âu Việt lúc khởi đầu? Theo Việt Sử,và Trung Quốc sử, và dựa vào sự khảo cứu của các học giả Thái văn Kiểm và Lê Ngọc Trụ Cựu Giảng Sư Đại Học Văn Khoa Saigon th́ Lạc Việt và Âu Việt lài hai dân tộc thuộc nhóm Bách Việt sinh sống tiếp giáp nhau. Lạc Việt sinh sống lâu đời tại Đồng bằng sông Hồng ở Bắc Bộ Việt Nam. C̣n Âu Việt vị trí ở Đông Bắc Lạc Việt cḥi sang phần đất Quảng Tây Trung Quốc bây giờ.Giải đất Lạc Việt kéo dài từ Đồng Bằng Sông Hồng qua khu vực sông Mă và sông Lam ( Sông Cả) của Miền Trung Bộ Việt nam ngày nay
Sông Hồng bắt nguồn từ vùng núi Vân Nam, Trung Quốc chảy qua Việt Nam và đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt (ranh giới giữa hai tỉnh Thái B́nh và Nam Định).. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km. có các tên gọi khác như Hồng Hà hay sông Cái .Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lănh thổ Việt Nam tại xă A Mú Sung (huyện Bát Sát), chính giữa sông là điểm phân chia lănh thổ hai nước. Đoạn chảy qua Phú Thọ gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội gọi là Nhị Hà . Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu sông bắt đầu từ Việt Tŕ Các sông nhánh chính của sông Hồng là sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông Chảy và sông Gâm). Sông Hồng có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Lại thuộc Hải Dương và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quư Cao (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Pḥng). Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái B́nh. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (c̣n gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ), Sông Hồng chảy qua các tỉnh, thành phố: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc ,Hà Nội, Hưng Yên,Nam Định, Hà Nam, Thái B́nh Sông Hồng chảy qua các cây cầu theo thứ tự từ bắc xuống nam:
![]() Sông Mă là một con sông của Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km, trong đó phần trên lănh thổ Việt Nam dài 410 km và phần trên lănh thổ Lào dài 102 km. ... Sông Mă bắt nguồn từ phía Nam tỉnh Điện Biên chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Sông Mă của tỉnh Sơn La, qua lănh thổ Lào, rồi tới tỉnh Thanh Hóa. Tại Thanh Hóa, sông tiếp tục giữ hướng Tây Bắc - Đông Nam chảy qua các huyện phía Bắc của tỉnh, hội lưu với sông Chu rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ ở cửa Hới nằm giữa huyện Hoằng Hóa và thị xă Sầm Sơn cùng hai cửa phụ là Lạch Trường và cửa Lèn. Các phụ lưu lớn của sông Mă là sông Chu, sông Bưởi, sông Cầu Chày đều hợp lưu với sông Mă trên địa phận Thanh Hóa. Ngoài ra c̣n có các phụ lưu nhỏ như sông Lũng, sông Sơn Trà, sông Nậm Soi. Sông Mă chủ yếu chảy giữa vùng rừng núi và trung du. Phù sa sông Mă là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam. ![]() Sông Lam (Sông Cả ) Sông bắt nguồn từ vùng Nậm Căn, Lào. Phần chính của ḍng sông chảy qua Nghệ An, phần cuối của sông Lam hợp lưu với sông La từ Hà Tĩnh, tạo thành biên giới của Nghệ an và Hà tĩnh đổ ra biển tại cửa Hội. Cụ thể, trên lănh thổ Việt Nam, nó chảy qua địa phận huyện Nam Đàn, giữa các huyện Hưng Nguyên, thành phố Vinh, Nghi Lộc của tỉnh Nghệ An rồi vào và Đức Thọ, Nghi Xuân, thị xă Hồng Lĩnh của tỉnh Hà Tĩnh trước khi đổ ra cửa Hội. Tổng cộng chiều dài của sông khoảng 513 km, phần chảy ở Việt Nam khoảng 361 km. Sông chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, khi gần tới biển chảy ngược lên hướng Bắc. Sông Lam hàm nghĩa sông nước màu xanh. Có một số nhánh sông nhân tạo lấy nước từ Sông Lam như sông Đào. Sông Cả là tên cũ của sông Lam. Sông Cả hàm nghĩa là " Sông mẹ", của những con sông nhỏ đổ về như Nậm Nơm, Nậm Mộ, sông Giăng, và sông La. Sông c̣n có các tên như Lam Giang, Thanh Long Giang, Lam Thủy.
Kinh đô nước Văn Lang của Lạc Việt là Phong Châu. Hiện nay Phong Châu là một huyện của tỉnh Phú Tho
Kinh đô của nước Âu Lạc ( thống nhất của Lạc Việt và Âu Việt) là thành Cổ Loa. Cổ Loa bây giờ là một xă của huyện Đông Anh trực thuộc khu vực Hà nội.
( bài Sưu tầm của PhamXuân Khuyến)
Xin mời coi video Sông Mă. Hăy click Sông Mă |
|
|
Nước Việt khởi đầu có tên là Nước Văn Lang. Nước Văn Lang bao trùm ba lưu vực sông Hồng , sông Mă và sông Lam. Đại Việt Sử Lược chép rằng Nước Văn Lang gồm 15 bộ:
Hết thời vua Hùng Vương thứ 18, th́ Nước Việt mang quốc hiệu Âu Lạc. Âu Lạc là quốc gia phối hợp hai tộc Lạc Việt và Âu Việt của nhóm Bách Việt dưới triều đại của An Dương Vương (Thục Phán). Âu Việt ở Đông Bắc Lạc Việt thuộc khu vực Quảng Tây ngày nay. Đến đây, Nước Việt bao gồm Quảng Tây Trung Quốc. Chẳng bao lâu, Nước Việt lại mang quốc hiệu Nam Việt khi Triệu Đà chiếm được thành Cổ Loa kinh đô của An Dương Vương . Triệu Đà xưng là Triệu Vũ Đế cai trị quốc gia Nam Việt đóng đô tại Phiên Ngung tức Quảng Châu , thủ phủ của tỉnh Quảng Đông ngày nay. Đến lúc này, Nước Việt bao gồm cả Quảng Tây và Quảng Đông thâu gồm các tộc Bách Việt. Đến năm 111 trước Công Nguyên Nhà Hán thắng họ Triệu, sát nhập Nam Việt vào Trung Quốc. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, cầm quân đánh chiếm được các quận Giao Chỉ, Cửu Châu, Nhật Nam và Hợp Phố, thống nhất đất nước. Bà Trưng Trắc lên làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Năm 43, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại. Đặt lại ách xâm lược, Mă Viện tướng nhà Hán cho đóng cột đồng để phân chia giới hạn giữa đất Hán và đất Giao Chỉ. Từ thời Mă Viện tướng nhà Hán cho đóng cột đồng để phân chia giới hạn giữa đất Hán và đất Giao Chỉ (đất quê hương của hai Bà Trưng) th́ cho tới ngày nay nước Việt chúng ta mất mát nhiều về ranh giới phía bắc giáp giới Trung Quốc ( xin mở coi mục: click miền Bắc nước Việt ) C̣n biên giới miền Nam th́ từ khi lập quốc đến năm1069 vẫn không nhúc nhích tư ǵ nơi Đèo Ngang (Hà Tĩnh sang Quảng B́nh). Các triều đại Lư, Trần, Lê...đặt thủ đô tại Thăng Long (Hà Nội) th́ trên bán đảo h́nh chữ "S" nầy lúc đó có tất cả ba quốc gia với ba ông vua khác nhau: Miền Bắc của người Việt Nam, Miền Trung là nước Chiêm Thành và Miền Nam là nước Chân Lạp. Khi nhà Lư nhà Trần th́ bắt đầu cuộc Nam tiến. Vua Trần Nhân Tông gả con gái của ḿnh là Công Chúa Huyền Trân, em ruột vua Trần Anh Tông cho vua Chế Mân nước Chiêm Thành vào khoảng năm 1306 để lấy hai châu Ô và châu Lư ( tức là hai tỉnh Quảng Tri và Thừa Thiên bây giờ) mở rộng đất nước tới Đẻo Hải Vân. ( xin đột giả thưởng thức ngắn ngủi video về con gái vua Trần Nhân Tông, xin click Con vua Trần) Đến nhà Lê thời Lê Thánh Tông (thế kỷ 15,16) th́ người Việt chiếm được Miền Trung cho đến Đèo Cả Phú Yên, sau khi phá huỷ Thành Đồ Bàn Kinh Đo nước Chiêm Thành vào năm 1471 ( xin coi video về Đèo Cả, xin click Đèo Cả) Nhưng trên thực tế th́ Miền Trung vẫn chưa được b́nh định một cách trọn vẹn. Bảo vệ và phát triển vùng đất mới từ Đèo Ngang thuộc tỉnh Quảngh B́nh trở vào là công lao của Nguyễn Hoàng và con cháu của ông. ( xin coi video về Đèo Ngang, xin click Đèo Ngang ) Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần từ năm 1648 đến 1687 đă tiêu diệt Chiêm Thành Năm 1692, đầu đời chúa Nguyễn Phúc Chu, hầu như lănh thổ Chiêm Thành đă thuộc về chúa Nguyễn. Vua Minh Mạng là người hoàn tất chiếm trọn nước Chiêm Thành , xoá tên nước Chiêm Thành khỏi bản đồ vào năm1835.
Tiến vào Miền Nam Trước thế kỷ thứ 17, tại Miền Nam đă có các dân tộc Phù Nam, Bồn Man, Chàm, Chân Lạp (chúng ta thường gọi là người Miên hay Khmer) đến khai thác những chỗ đất cao như vùng Trà Vinh, Sóc Trăng,v.v...Đa số phần đất c̣n lại chưa có người ở là một vùng đất mênh mông, nhiều chỗ c̣n hoang vu, đồng lầy ngập nước với những cánh rừng tràm và cây đước mọc um tùm, muỗi ṃng, rắn rết, cá sấu, cọp beo, thú dữ, đĩa đói. Đến đời Nguyễn Phúc Tần (1649-1687), Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) th́ người Việt mới có mặt ở vùng Đồng Nai, Cửu Long (Miền Nam ngày nay).
Các chúa Nguyễn đă quy tụ những người dân có máu phiêu lưu mạo hiểm, có tinh thần tranh đấu, cho đi lập nghiệp ở đất mới. Bàn tay của họ đă dựng nên nhà cửa, ruộng vườn, lập thành làng mạc Để bảo vệ những nơi có người Việt đến khai khẩn đất hoang, các chúa Nguyễn đă cho đóng quân bên cạnh quân đội Chân Lạp. Tại những vùng đất mới, chúa Nguyễn đă cho tổ chức những lực lượng tự vệ gồm có binh sĩ và gia đ́nh của họ kết hợp với dân đến định cư, lập nghiệp. Họ đă thành lập những làng gọi là "đồn điền", thời b́nh th́ làm ruộng, khi có chiến tranh th́ họ là lực lượng chiến đấu tự vệ. Đó là chính sách "tịnh vi nông, động vi binh" đă có từ thời Lư, Trần, Lê...ở nước ta. Những danh tướng chỉ huy các lực lượng chiến đấu tự vệ này là Nguyễn Hữu Cảnh (Quảng B́nh), Nguyễn Cư Trinh (Thừa Thiên), Châu Văn Tiếp (B́nh Định), Đỗ Thanh Nhân (Thừa Thiên), Nguyễn Văn Thành (Thừa Thiên), Lê Văn Duyệt (Quảng Ngăi), Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu, Quảng Nam),v.v Tổ tiên của những người Miền Nam chính là dân Ngũ Quảng : Quảng B́nh, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngăi.
Lợi dụng lúc chú cháu Vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân và Nặc Ông Đài tranh quyền, chúa Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1649-1687 lấy lư do bảo vệ người Việt nên ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh đem 3000 quân vào đóng ở Bà Rịa, bắt được Nặc Ông Chân, sau đó tha cho về và bắt phải triều cống nước ta. Sau khi Nặc Ông Chân chết, Nặc Ông Nộn và Nặc Ông Đài tranh nhau ngôi vua. Đài qua cầu viện vua Xiêm (Thái Lan), Nộn th́ chạy sang cầu cứu với chúa Nguyễn. Quân chúa Nguyễn đánh Nặc Ông Đài tại Sài G̣n, Đài bỏ chạy qua Nam Vang và chết ở trong rừng. Chúa Nguyễn chia đôi nước Chân Lạp cho Nặc Ông Thu (là con ḍng trưởng) làm vua một nửa nước và Nặc Ông Nộn làm vua phần c̣n lại. Hai vua Chân Lạp đều dưới quyền của chúa Nguyễn, hằng năm phải triều cống.
Cũng Thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1649-1687)"Vào một ngày tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1679) quan quân nhà Minh, bị người Măn Châu (Nhà Thanh) xâm lăng, không chịu khuất phục cường quyền và để tỏ ḷng trung thành với nhà Minh nên họ đă bỏ nước ra đi, t́m đến chúa Nguyễn. xin được phục vụ và thề hứa tuyệt đối trung thành với chúa Nguyễn. Toàn bộ lực lượng của họ gồm có 50 chiến thuyền với 3.000 binh sĩ và gia đ́nh". Chúa Nguyễn cho họ vào tỵ nạn và được làm dân của chúa Nguyễn,. Tờ tŕnh của các quan tâu lên chúa Nguyễn có đoạn viết như sau:"Nay đất Đông Phố, nước Chân Lạp, đồng ruộng ph́ nhiêu ngh́n dặm. Triều đ́nh chưa rỗi mà kinh lư (khai thác, mở mang), chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai thác để ở, làm một việc mà lơi ba điều" (Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, bản dịch, Hà Nội, 1962, q.5 tr.125). Chúa Nguyễn theo lời bàn, cho nhóm tỵ nan quan quân nhà Minh, vào khai phá vùng Bến Tre, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Biên Ḥa...ngày nay. Họ lập chợ ở bờ sông, mở ṣng bài, tổ chức hành chánh, kiểm tra dân số, thu thuế ruộng, đất, thuế bến đ̣, thuế buôn bán để nuôi quân và nộp cho chúa Nguyễn, lập ra những làng người Hoa gọi là Minh hương.
Đời chúa Nguyễn Phúc Chu, Tháng 8 năm Mậu Tư (1708) Mạc Cửu đến Huế yết kiến chúa Nguyễn, dâng đất Hà Tiên. Mạc Cửu chủ nhân khai thác vùng Hà Tiên .Ông gốc người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, trung thành với nhà Minh, không chịu theo tập tục của nhà Thanh (Măn Châu), đem gia đ́nh theo đường biển chạy về phương Nam, chiêu dụ người Hoa, Mă Lai, Nam Dương, Ấn Độ, Chân Lạp và dân phiêu bạt các nơi lập được nhiều xă ở m ột v ùng nghe đồn thường có tiên hiện ra trên sông, nên Ông đặt tên là Hà Tiên. Dân phiêu bạt về với ông mỗi ngày một đông, chẳng mấy chốc đất Hà Tiên càng ngày càng phồn thịnh.V́ đất nầy là do chính Mạc Cửu khai phá, xây dựng nên. Chúa Nguyễn không nhọc công chinh chiến mà có, lại thấy ông tướng mạo oai hùng, tới lui cung kính và có ḷng trung thành bèn thu nhận đất mới nầy, đặt tên là trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh. Mạc Cửu được chúa Nguyễn ban cho ấn kiếm, cờ hiệu, được quyền cai trị dân trên một dải đất bao gồm vùng Hà Tiên, Châu Đốc, Rạch Giá, Long Xuyên, Cà Mâu...ngày nay. Chúa cho mở yến tiệc khoản đăi rồi tiễn chân ra về. Mọi người đều hoan hỷ vui mừng.Với danh nghĩa quan Tổng Binh của chúa Nguyễn, danh chính ngôn thuận, Mạc Cửu cho xây thành quách, tổ chức quân đội, hành chánh, đặt quan cai trị tại địa phương, xây dựng cơ sở, kiểm tra dân số, chiêu hiền đăi sĩ, đón tiếp nhân tài, tổ chức làng mạc, khai khẩn đất hoang...dân chúng theo về mỗi ngày một đông, chẳng bao lâu Hà Tiên trở thành phố thị phồn hoa, đô hội. Ông mất năm 1735, hưởng thọ 80 tuổi. Ông là người đă đóng góp công lao rất lớn cho việc b́nh định mở mang vùng Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cà Mau ngày nay, Người Chân Lạp dần dần suy yếu, cho đến thời chúa Nguyễn Phúc Ánh (1790-1800), th́ c̣n lại 12 thủ lănh người Chân Lạp chiếm cứ 12 vùng chung quanh Gia Định. Trước khi Nguyễn Phúc Ánh thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước vào năm 1802, tất cả 12 thủ lănh người Chân Lạp nầy đă theo về với ông. Trong cuộc Nam tiến, người Việt đă không đi sâu vào vùng Rừng Lá (là vùng đất dọc theo quốc lộ I từ Phan Thiết đến Long Khánh ngày nay) theo kiểu tằm ăn dâu, mà lại theo đường biển xâm nhập vùng Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Tre, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên... Sau khi Sài G̣n, Gia Định, Biên Ḥa đă thuộc về người Việt th́ vùng Rừng Lá đương nhiên là phần lănh thổ của nước ta. Sau khi Gia Long lên ngôi vẫn để cho Việt Nam có ba chế độ riêng biệt: Nguyễn Văn Thành toàn quyền ở Miền Bắc, Lê Văn Duyệt toàn quyền ở Miền Nam. Gia Long đóng đô ở Huế, vua ngồi ở giữa theo dơi công việc của hai vị Tổng trấn ( Bài của Phạm xuân Khuyến) |
|
thời Văn Lang lớn hơn thời nay
Miền Bắc c̣n gồm cả Nam Ninh tên cũ là Ung Châu (bộ Thanh Tuyền của nước Văn Lang thời HùngVương) và Khâm Châu (Bộ Ninh Hải của nước Văn Lang thời HùngVương). |
|
•Ung Châu nhâp vào Quảng Tây thời kỳ nào ? Lịch sử không có ghi chép thời gian nhập, nhưng cho biết Ung Châu được đổi tên thành lộ Nam Ninh Quảng Tây (1225) . Nam Ninh= Khu Tư-Trị nơi mà có vùng duyên-hải quận Trường B́nh tập trung dân-cư bản-địa người Việt-Nam ( tài liệu năm 1885 cho biết) Một vài h́nh-ảnh về người Việt-Nam hiện đang sinh-sống trong vùng Nam Ninh
Khâm Châu (Bộ Ninh Hải của nước Văn Lang thời HùngVương) nhâp vào Quảng Tây thời kỳ nào ? Sách Nhất Thống Chí nhà Đại Thanh chép: Trụ đồng Mă Viện đặt ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.
Sách
Đại
Việt Sử Kư Toàn Thư Ngoại Kư của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22
cũng có ghi:
Mă
Viện
bèn
dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương
truyền ở trên
động cổ Lâu, châu Khâm thuộc vùng biên giới cực bắc
Giao Chỉ. Ư của Mă Viện khi dựng cột mốc biên giới nhằm cảnh cáo dân Việt đừng mộng tưởng như Hai Bà Trưng là lấy lại lănh thổ nước Nam Việt của Triệu Vũ Vương ( Triệu Đà)
Cắm mốc ranh giới 1- Đến thời Lê Trung hưng th́ Bắc Nước Việt trên bản đồ Hồng Đức (được thiết lập vào năm 1490) có vẽ h́nh một cái đồn để tượng trưng cho ải Nam Quan và có ghi chú là Ải Nam Quan nằm ở huyện Văn Uyên (thuộc trấn Lạng Sơn, tức là thuộc về Việt Nam) và tại đấy có hai đài, đài Chiêu Đức (thuộc về Trung quốc) và đài Ngưỡng Đức (thuộc về Việt Nam).Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan: "Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, cửa quan đặt ở quăng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan. Ngưỡng Đức Đài ngày nay đă hư hoại không c̣n vết tích .
2-Đến thời Pháp
Bắc Nước Việt bị cắm mốc lại. •Ngày 21/ 04 / 1891 tiến hành cắm cột mốc biên giới gần ải Nam quan giữa các nhân sự nhà nước Bảo Hộ Pháp và nhân sự của vương triều nhà Thanh Mặc dầu ranh giới đă được kư kết, mặc dầu sự cắm mốc đă thực hiện , những đơn vị địa phương Trung Quốc vẫn hằng xâm phạm làm tổn haị sinh mạng người Việt và rỡ những mốc đă cắm. Những hiện tượng này vẫn xẩy ra cho đến năm 1895\ Năm 1895, Pháp dành chiến thắng trước nhà Thanh trong Chiến tranh Pháp-Thanh. Công ước Pháp-Thanh 1895 đă đưa về phần lớn vùng đất Lai Châu, Điện Biên và một phần Lào Cai ngày nay thuộc về xứ Bắc kỳ., mặc dầu Pháp thất bại các trận chiến tại Băng Bố ( cửa Nam Quan). . Wikepedia ( tự điển Bách khoa) cho biết có một cột mốc cắm biên giới Bắc Bộ và Quảng Tây ở Chi Ma năm 1891 ( a post at Chi Ma, on the Tonkin-Guangxi border) 3- Đến ngày nay th́ Bắc Nước Việt bị cắm mốc lại môt lần nữa
Ngày
30 /12/
1999, tại Hà nội, hai ngoại trưởng
Ngày
29 / 4 /
2000 quốc hội Trung Trung Quốc
biểu quyết thông qua Hiệp ước
biên giới đất liền và
ngày 9 /6
/ 2000 quốc hội Việt Nam
thông qua Hiệp ước biên giới đất liền
·Từ 2001 - 2008 cắm mốc biên giới giữa những nhân sự chính phủ Trung Quốc và nhân sự chính phủ Việt Nam . Nh́n bản đồ , chúng ta thấy thủ phủ Nam Ninh phía bên Trung Quốc , tụ điểm của Hậu Giang và Tả Giang. Nam Ninh là ǵ vậy? Để phần nào hiểu vấn đề ranh giới Việt Trung, xin đọc giả coi video về cuộc đàm phán biên giới giữa Chánh phủ của nước Cộng Ḥa Xă hội Chủ nghĩ Việt nam và nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc . Xin click Biên Giới Để biết phần nào về Ải Nam Quan hiện nay, xin click ẢI NAM QUA
Sự thành h́nh của Nam Kỳ Lục Tỉnh tức vùng Đồng Nai Cửu Long Bài thuyết tŕnh của Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm
(LTS: Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm là chủ tịch hội Lăng Ông - Lê Văn Duyệt Foundation. Ông tŕnh bày bài thuyết tŕnh sau đây nhân ngày khai mạc Tuần Lễ Văn Hóa Miền Nam tại Hội Tả Quân Lê Văn Duyệt Foundation vào trưa thứ Bảy, ngày 3 tháng Giêng 2009. Để quư độc giả tiện tham khảo, Nhật báo Viễn Đông đăng tải nguyên văn bài thuyết tŕnh của Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm.) |
|
|
Đồng Nai Cửu Long là tên hai hệ thống sông lớn ở Miền Nam nước Việt. Khi nói vùng Đồng Nai Cửu Long là người ta muốn nói đến tất cả các tỉnh nằm trong vùng đất bao quanh hai hệ thống sông lớn này. Đó là các tỉnh Miền Đông và Miền Tây Nam phần, từ B́nh Thuận vào đến Cà Mau. Dưới thời vua Gia Long và phần đầu của thời vua Minh Mạng (1802-1832), cả vùng này được gọi là Trấn Gia Định mà Tả Quân Lê Văn Duyệt là người hai lần được bổ nhiệm làm Tổng Trấn ở đây. Năm 1932, sau khi Lê Văn Duyệt mất, Gia Định Trấn mới bị băi bỏ, Miền Nam được chia thành 6 tỉnh (Gia Định, Biên Ḥa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Địa danh Nam Kỳ Lục Tỉnh có từ đó. Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp gọi vùng này là Cochinchine hay Nam Kỳ. Đây là vùng thuộc địa của Pháp, và lục tỉnh được chia làm 21 tỉnh (với các chữ đầu là Gia Châu Hà Rạch Trà, Sa Bến Long Tân Sóc, Thủ Tây Biên Mỹ Bà, Chợ Vĩnh G̣ Cần Bạc Cắp). Thời Việt Nam Cộng Ḥa, vùng này là Miền Nam Việt Nam và bao gồm các tỉnh Miền Đông (Tây Ninh, B́nh Long, Phước Long, B́nh Dương, Biên Ḥa, Long Khánh, B́nh Tuy, Phước Tuy, Gia Định), và các tỉnh Miền Tây Nam Phần (Châu Đốc, Kiến Phong, Kiến Tường, Hậu Nghĩa, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, Long An, Chương Thiện, Phong Dinh, Vĩnh B́nh, Kiến Ḥa, G̣ Công, An Xuyên, Bạc Liêu, Ba Xuyên). Chính phủ hiện thời dùng chữ Nam Bộ thay v́ Nam Phần và cũng phân biệt Miền Đông (hay vùng Đồng Nai với các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Tây Ninh, Long An) và Miền Tây (hay đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Cửu Long, An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Minh Hải). Khi Nguyễn Hoàng được cử vào cai quản Thuận Hóa (1558) th́ đất đai của nước Việt về phía Nam chỉ có đến Phú Yên. Từ đó đến B́nh Thuận c̣n là lănh thổ của Chiêm Thành hay Champa. Nhưng từ lúc xứ Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) của Chúa Nguyễn bắt đầu thành h́nh th́ cũng là lúc Chiêm Thành khởi sự suy yếu dần. Xứ Đàng Trong càng lớn mạnh lên bao nhiêu th́ xứ Chiêm Thành càng yếu đi và càng nhỏ lại bấy nhiêu. Cho đến cuối thế kỷ thứ XVII th́ nước Chiêm Thành kể như không c̣n nữa và dân tộc Chăm trở thành người dân thiểu số trong cộng đồng người Việt. Biên giới phía Nam của nước Việt bấy giờ là vùng B́nh Thuận, và nước láng giềng về phía này của Việt Nam là nước Chân Lạp (tức Kampuchea hay Cao Miên) của người Khờ Me (tức người Miên như người trong Nam thường gọi). Vùng Đồng Nai Cửu Long lúc này thuộc về Chân Lạp. Thật ra đất Đồng Nai Cửu Long chỉ có thuộc về Chân Lạp trên danh nghĩa thôi, trong thực tế người dân Khờ Me không có mặt nhiều trên phần đất này. Người dân Khờ Me chỉ sinh sống ở một vài nơi thưa thớt, rải rác trên vùng đất cao, hoang vu mênh mông ở vùng Hậu Giang của đồng bằng sông Cửu Long. Ở vùng Đồng Nai th́ có các bộ lạc người Mạ và người Xtiêng sinh sống, cũng rải rác, cũng thưa thớt trong vùng đất mênh mông hoang vu vậy. Triều đ́nh Chân Lạp chưa có thiết lập các cơ quan hành chánh cai trị hay những đồn binh quân sự trấn đống để bảo vệ đất đai và dân chúng của họ trên vùng đất này. Đối với người dân Việt, những đất đai mênh mông hoang vu ở đây là đất vô chủ, không ai để ư tới, không ai ḍm ngó, kiểm soát. Vả lại, ranh giới giữa hai nước (Việt - Chân Lạp) không có ǵ rơ ràng, ranh giới giữa các sắc tộc sinh sống rải rác trên vùng đất này (xem như vùng trái độn) lại càng mơ hồ, co giăn, biến thiên hơn. Trong t́nh huống đó, và với bản năng sinh tồn mạnh mẽ, người Việt không ngần ngại ǵ mà không vào vùng đất hoang vu mới mẻ này để phá rừng, dọn đất, trồng trọt, mưu sinh, lập nghiệp. Mô Xoài là nơi mà người Việt đă đến khai phá, định cư sớm nhất. Mô Xoài tức là Bà Rịa bây giờ. Các sách Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam Nhất Thống Chí triều Nguyễn cho rằng xứ Mô Xoài là vùng địa đầu của Biên Trấn, tức là vùng người lưu dân Việt đầu tiên đặt chân vào để khai phá mở mang Miền Nam nước Việt. Đây chỉ là những bước đầu lẻ tẻ, chập chững của những người đi tiên phong trong công cuộc mạo hiểm vào vùng đất mới lạ. Phải đợi một cơ hội thuận tiện nào đó để việc mở rộng về phương Nam trở thành phong trào mạnh mẽ, có tính cách quy mô hơn. Cơ hội đó là sự cầu thân của vua Chân Lạp Chey Chetta II với Chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào năm 1620. Sử Khờ Me ghi là sau khi lên ngôi vua Chey Chetta II cho xây cung điện nguy nga tại Oudong rồi cử hành lễ cưới long trọng với một nàng công chúa xinh đẹp của Việt Nam. Hoàng hậu Sam Đát (tức công chúa Ngọc Vạn) có đem nhiều đồng hương sang Chân Lạp. Có người làm quan trong triều, có người làm thủ công, có người buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Theo hồi kư của giáo sĩ Chistofo Borri, một người Ư đă sống gần Qui Nhơn từ 1618 đến 1622, th́ chúa Nguyễn đă viện trợ cho vua Chân Lạp cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại quân Xiêm. Borri cũng tả rơ phái đoàn quan quân Việt Nam đưa công chúa Ngọc Vạn về Oudong như sau: ”Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bày trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh Oudong, th́ dân chúng Khờ Me, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Hoa đă tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan nghênh.” Về phương diện xă hội, việc công chúa Ngọc Vạn theo chồng về Miên có thể được xem như là một sự mở đầu cho những bành trướng lănh thổ quy mô về phương Nam của dân tộc Việt. Theo chân Ngọc Vạn công chúa lưu dân người Việt càng ngày càng vào Nam lập nghiệp nhiều hơn. Với chính sách khuyến khích khéo léo của chính quyền, làn sóng vào Nam càng lúc càng bành trướng mạnh mẽ. Về phương diện chính trị ngoại giao, cuộc hôn nhân của công chúa Ngọc Vạn với vua Chey Chetta II là bước mở đầu cho mối liên hệ ngoại giao giữa hai dân tộc Việt-Khờ Me, một mở đầu hết sức quan trọng đối với triều Nguyễn và người dân Đàng Trong. Từ đây triều Nguyễn luôn luôn sẵn sàng để hoặc giúp đỡ/viện trợ, hoặc can thiệp vào nội t́nh Chân Lạp. Cứ mỗi lần quân chúa Nguyễn tiến lên xứ Miên làm một công ơn ǵ đó đối với Chân Lạp là mỗi lần triều đ́nh Chúa Nguyễn được đền đáp bằng một số đất đai để hợp thức hóa những nơi lưu dân người Việt đă từng vào khai phá. Những sự kiện lịch sử sau đây đánh dấu những bước tiến trong quá tŕnh hoàn thành vùng đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo lối “dân đi trước chính quyền đến sau”. - Hai năm sau khi Ngọc Vạn trở thành hoàng hậu Chân Lạp, năm 1623, chúa Nguyễn sai phái bộ tới Oudong yêu cầu vua Chey Chetta II cho chúa Nguyễn lập hai đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Chân Lạp. Từ khi có các đồn thu thuế của chúa Nguyễn, vùng này đă trở nên vùng thị tứ trên bến dưới thuyền rất là sầm uất. - Năm 1658 triều đ́nh Chân Lạp có nội biến, thái hậu Ngọc Vạn đă khẩn cầu Chúa Nguyễn là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần giúp quân đánh dẹp Nặc Ông Chân dành lại ngôi báu cho ḍng họ Prea Outey. Chúa Hiền, cháu kêu thái hậu Ngọc Vạn bằng cô ruột, cho quan Khâm Mạng Trấn Biên dinh Phú Yên là Tôn Thất Yến đem 3,000 quân qua giúp bắt được Nặc Ông Chân giải về Quảng B́nh. “Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đ́nh đem nhượng hết cả đất ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện ǵ.” (Gia Định Thông Chí, trung, tr.7). Đất ấy đây là vùng Mô Xoài, chính thức thuộc lănh thổ Việt Nam từ đó. - Sang năm 1674 Nặc Ông Đài lại liên kết với Xiêm La chống Đại Việt. Chúa Nguyễn là Hiền Vương cử cai cơ Nguyễn Dương Lâm đem quân đánh chiếm Sài G̣n và tiến lên Nam Vang. Chúa Nguyễn làm chủ t́nh thế cả vùng Đồng Nai. |
|
- Năm 1679 trấn thủ Quảng Đông là Dương Ngạn Địch cùng với phó tổng binh Hoàng Tiến, và tổng binh các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên cùng phó tổng binh Trần An B́nh đem 3000 quân Trung Hoa (nhà Minh) với 50 chiến thuyền trốn quân Thanh chạy sang Việt Nam xin làm thần dân của Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần dung nạp họ và cho người hướng dẫn họ đến vùng đất mới trong Nam để định cư sinh sống. Nơi đây đă có một số người lưu dân Việt khai phá. Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên vào Biên Ḥa khai khẩn đất đai, thiết lập phố xá bán buôn., phát triển nông nghiệp và thương nghiệp cùng với người lưu dân Việt ở hai nơi này. Cùng lúc đó ở Cà Mau, một cựu thần khác của nhà Minh là Mạc Cửu cũng trốn quân Thanh sang đây khai khẩn lập nghiệp. - Năm 1698 Minh Vương Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất Chân Lạp. Năm 1699, Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam Vang để can thiệp và trở về vào khoảng tháng Tư năm sau. Trên đường về ông cho quân sĩ theo ḍng Tiền Giang, trú đóng tại Cái Sao (vùng chợ Thủ của Long Xuyên). Một số quân sĩ bị phát bịnh dịch và chính ông cũng bị nhiễm bịnh và mất hai ngày sau khi quân ông rút khỏi vùng này. Một số binh sĩ hoặc bị bịnh hoặc t́nh nguyện ở lại vùng Cái Sao khai khẩn đất đai sinh sống trước khi vùng này được vua Cao Miên nhường cho Chúa Nguyễn. Họ được gọi là người dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia Định từ xưa. (Xem Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam của Sơn Nam, tr. 23). - Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân hành quân sang Cao Miên đánh quân Xiêm, trên đường về trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An), khai khẩn đất hoang, cho lập đồn binh và cho đào kinh cho rạch Vũng Gù ăn thông sang rạch Mỹ Tho, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang. - Năm 1708 Mạc Cửu dâng cả vùng mới khai khẩn ở Cà Mau xin hàng phục Chúa Nguyễn. Vùng này gồm các ấp vừa lập từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá đến Cà Mau. Hà Tiên trở thành một thương cảng quan trọng trong vùng. Chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho Mạc Cửu làm tổng binh, giữ đất Hà Tiên. - Năm 1732 lưu dân người Việt bị quân Miên tấn công. Chúa Nguyễn là Ninh Vương cử Trương Phúc Vĩnh đem quân vào dẹp yên. Vua Chân Lạp là Nặc Tha nhường Me Sa (Mỹ Tho) và Long Hồ cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn lấy đất Long Hồ lập thành châu Định Viễn (Vĩnh Long) và đặt dinh Long Hồ. - Năm 1753 Nguyễn Cư Trinh đem quân sang đánh Chân Lạp. Vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thua trận bèn dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (G̣ Công và Tân An) để cầu ḥa. Bốn năm sau Nặc Nguyên mất, Chân Lạp có nội biến. Chúa Nguyễn cử Mạc Thiên Tứ đưa em họ của Nặc Nguyên là Nặc Tôn lên ngôi. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (gồm An Giang và một phần Vĩnh Long) để tạ ơn Chúa Nguyễn và năm phủ ở vùng Hà Tiên cho Mạc Thiên Tứ. Năm phủ này được sát nhập vào trấn Hà Tiên. Đến đây kể như vùng Đồng Nai Cửu Long đă trọn vẹn thuộc về Việt Nam, và thuộc về Đàng Trong của Chúa Nguyễn. Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII người Việt Nam mất 150 năm để tiến vào và mở mang vùng đất hoang vu mới mẻ này. Trước khi người Việt đến vùng Đồng Nai khai khẩn th́ nơi đây c̣n là cả một vùng “toàn rừng rậm mấy ngh́n dặm” theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư Đôn. Vùng rừng rậm hoang vu này là vùng cư trú của nhiều nhóm dân tộc thiểu số mà người Việt gọi chung là người “Man” theo tiếng Hán Việt hay nôm na là người “Mọi.” Đó là các dân tộc thiểu số người Mạ, người Xtiêng, người Mnông, Người Cơho, người Churu, v.v.. Trong các nhóm này quan trọng hơn hết là người Mạ ở vùng Mô Xoài Bà Rịa, người Xtiêng ở vùng Biên Ḥa, B́nh Dương và người Khờ Me ở Tây Ninh. Dân tộc Mạ hay Châu Mạ (Châu theo tiếng Mạ có nghĩa là người) nói tiếng nói thuộc nhóm Môn – Khờ Me. Địa bàn sinh sống của Châu Mạ ngày xưa là cả vùng Đồng Nai xuống đến Mỹ Tho (theo B́nh Nguyên Lộc). Dân tộc Mạ mà người Việt thường gọi là Mọi Bà Rịa, thạo nghề dệt vải có hoa văn đẹp, ở nhà sàn dài, có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. Họ rất hiền ḥa, thường bị người Xtiêng và người Miên bắt đem bán làm nô lệ ở các nơi. Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn ghi: “Từ các cửa biển như Cần Giờ, Xoài Rạp . . . đi vào toàn là những đám rừng hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn ngh́n dặm. . . Nhà Nguyễn cho dân được tự nhiên chiếm đất. . . Lại cho họ thâu nhận những người Mọi từ trên đầu nguồn xuống để mua làm đầy tớ, đứa ở, sai khiến, hầu hạ. . .” Dân tộc Mạ hiện có khoảng 20,000 người cư ngụ ở vùng cực Nam Tây Nguyên, phía Nam tỉnh Lâm Đồng, và một số ở Đắc Lắc. Người Xtiêng cư trú trong vùng các tỉnh Tây Ninh, B́nh Dương, Biên Ḥa. Tiếng nói của họ có nhiều nét gần gũi với tiếng Mnông, Cơho, Mạ, nằm trong nhóm Môn - Khờ Me. Họ để tóc dài, búi đằng sau gáy, đeo bông tai bằng cây hay bằng ngà, xăm mặt, xăm ḿnh, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Địa chí Thủ Dầu Một ấn hành năm 1910 gọi dân tộc Xtiêng là Mọi hoang, Mọi Cà Răng, Mọi Việt hay Mọi Đồng Nai. Dân tộc Xtiêng hiện nay có khoảng 40,000 người quần tụ vùng biên giới Tây Nam, ở các tỉnh Tây Ninh, B́nh Dương, Đồng Nai. Ở Hậu Giang, vùng Trà Vinh – Sóc Trăng có nhiều người Miên hơn ở Miền Đông Nam Phần. Những sóc người Miên này sống cách biệt với triều đ́nh Kampuchea. Khi người Việt vào khai khẩn vùng Hậu Giang th́ người Việt và người Miên cùng cộng cư, và sau này khi toàn cơi Nam Việt thuộc về Chúa Nguyễn th́ những người Miên này trở thành người dân thiểu số trong cộng đồng người Việt. Vùng Đồng Nai, vùng cư trú của hai sắc dân Xtiêng và Mạ là vùng đệm giữa hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ XVII, đất đai vùng này quá rộng mà người th́ quá ít cho nên dân cư quá thưa thớt, và phần lớn đất đai là rừng rú hoang vu đầy muôn thú. Khi người Việt bắt đầu vào khai khẩn đất hoang vùng này th́ người Mạ, người Xtiêng và một ít người Khờ Me (ở phí Tây Tây Ninh) từ từ rút lui dần về vùng đất cao ở phí Bắc và phía Tây, nhường đất thấp ở phía Nam cho người lưu dân mới đến khai phá. Người Việt thành thạo hơn trong việc khai khẩn đất đai, trồng lúa nước ở đất thấp (gọi là thảo điền), trong khi người sắc tộc thiểu số th́ thành thạo trong việc săn bắn và làm rẫy trên các ruộng cao hay giồng (sơn điền). Đất rộng mênh mông hoang vu, và lại là đất thấp không mấy thích hợp với thổ dân, là hai điều kiện vô cùng thuận lợi cho người lưu dân Việt vào vùng Đồng Nai khai hoang sinh sống mà không gặp một sự chống đối nào. Số ít người Việt đầu tiên vào đây khai phá không biết là ai, không biết họ bắt đầu vào làm công việc đó từ lúc nào, không có một ghi chép nào để lại tên họ gốc gác của những người đó. Theo các sách sử sau này th́ chắc chắn họ đă vào vùng Đồng Nai khai khẩn sinh sống rất sớm, ngay từ lúc Nguyễn Hoàng vừa vào trấn thủ Thuận Hóa. Trịnh Hoài Đức cho là từ đời các “tiên hoàng đế” tức là từ thời các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phước Nguyên. Những giai đoạn Nam tiến kể từ năm 939 Những người đầu tiên vào đây là những người tự nguyện chứ không phải là những người được chính quyền đưa đến hay bị lưu đày. Lúc này chính quyền chưa chính thức áp dụng biện pháp di dân vào Nam được. Lưu dân lúc này có thể là những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức, những người chạy trốn chiến tranh loạn lạc, những người không sống được trong xă hội đương thời, phải mạo hiểm t́m đường sinh sống ở vùng đất mới. Họ có thể đến từ Miền Bắc hay Miền Trung. Nhưng phần đông chắc là người Miền Trung, người Đàng Trong nhiều hơn, nhất là những người vùng Thuận Quảng. Sau đợt t́nh nguyện đầu tiên, nhất là sau sự kiện Ngọc Vạn công chúa, chúa Nguyễn bắt đầu áp dụng chính sách đưa dân quân vào Nam mỗi ngày một triệt để hơn. Theo Philippe Papin th́: Cuộc tranh chấp giữa hai phủ chúa thù nghịch đóng kín ranh giới, cho nên cuộc “Nam tiến” trở thành một hiện tượng của riêng lănh địa nhà Nguyễn ; nước Việt Nam “mới” c̣n đi xa hơn nữa, nhưng từ nay là người miền Trung sẽ tiến vào miền Nam bao la của nước Việt, bắt đầu được khai thác đúng vào lúc nước Việt đứt đoạn... Mong muốn kiểm soát một không gian ngày càng rộng lớn, các chúa Nguyễn bèn áp dụng một chính sách cư dân triệt để: các viên chức được lệnh tập hợp tất cả những người vô gia cư, tất cả những ai không có tên trong sổ bộ làng xă, đưa vào các tỉnh miền Nam mới chiếm được của Kampuchea. . . Giáo sư Nguyễn Đăng Thục ghi lại lời của Jules Sion trong “L'Asie des Moussons” về cuộc bành trướng của dân Việt về phương Nam như sau: Cuộc bành trướng của dân Việt là một sự đồng hóa thật sự. Tính chất đó giải thích v́ sao người Việt bành trướng chậm nhưng rất chắc chắn. Cao Miên và Lào quốc đánh nhau chỉ đem quân cướp lấy tù binh đem về làm nô lệ, lại có một giai cấp quí tộc thống trị cho nên có cướp được đất cũng để mất ngay.Mục đích của người Việt lại khác. Họ không cần bắt nô lệ, họ làm lấy. Đối với họ thắng trận không phải là để có người làm, mà là để có đất cày. Nhiều khi chiến tranh chỉ là để xác nhận một t́nh thế đă rồi. Dân Việt bành trướng một cách ôn ḥa, sinh cơ lập nghiệp rồi sau binh lính mới tới. Trước khi Việt Nam sáp nhập đất Nam kỳ về ḿnh, người Việt đă lập ở đây những tổ chức, những đám di dân đă xây dựng làng xóm hay là tới ở chung với người Mên, rồi lần lần nắm quyền chính. Cuộc bành trướng thực hành bằng cách đưa đến những đám người liên tiếp, đủ các hạng: dân cày không có ruộng, tù tội, kẻ chống đối chế độ hay là quân cướp muốn chuộc tội. Cũng có khi chính phủ thu thập những người đó rồi đưa xuống những miền mới chiếm lănh, hay là lập đồn điền nơi biên thùy để pḥng bị lân bang tới đánh. Những người ấy có quan lại cai trị và họ lập thành làng mạc. (Ḍng Việt, số 17, tr.68-69). Ngoài những người dân Việt từ vùng Thuận Quảng đến c̣n có người Trung Hoa vùng Quảng Đông – Quảng Tây, trốn chạy nhà Thanh, sang đây định cư lập nghiệp. Thành phần cư dân này rất quan trọng v́ họ giúp phát triển mạnh về thương mại và công nghiệp, nhất là thương mại. Trong số quân binh nhà Nguyễn đi chinh chiến ở Miền Nam hay trên Cao Miên cũng có nhiều người t́nh nguyện hay được chính quyền cho ở lại định cư, làm ăn với dân chúng. Nói chung th́ phần đông người lưu dân là người Miền Trung thuộc đủ các thành phần xă hội cùng một số đáng kể người Trung Hoa. Họ là những người có công lớn lao trong việc bành trướng lănh thổ, mở mang bờ cơi Việt Nam về phương Nam, biến vùng rừng rú hoang vu đầy muôn thú thành vùng đất đai ph́ nhiêu màu mỡ nuôi sống và làm giàu cho cả nước. Môi trường sinh sống mới và sự tiếp xúc với những nền văn hóa khác là những điều kiện cần yếu đưa đến những biến đổi. Trước hết là môi trường thiên nhiên vật lư: đất đai, khí hậu, ruộng nương, vườn tược ở đây cùng một loại với đất đai, khí hậu, ruộng nương vườn tược ở Kampuchia, Thái Lan, Mả Lai, thành ra các loại cây trái giống nhau, kỹ thuật làm ruộng, làm vườn, trồng cây trái cũng giống nhau. Cuộc sống vật chất ở nhà quê do đó cũng rất giống nhau. Người lưu dân Việt vào môi trường sinh sống này không thể không linh động thay đổi để thích ứng với môi trường sinh sống mới. Mặt khác ở trong hoàn cảnh sinh sống mới này họ lại gần gũi với những dân tộc khác với nền văn hóa khác mà lâu dần, quen dần, họ không thể không vay mượn một số nét đặc thù nào đó mà họ thấy cần yếu hay thích hợp với họ trong hoàn cảnh sinh sống mới. Thành ra từ khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa và các chúa Nguyễn nối tiếp, xây dựng nên Đàng Trong th́ bắt đầu có một nhánh văn hóa Việt biến dạng dần dần trở thành một chi nhánh văn hóa (subculture) có phần khác biệt với văn hóa cổ truyền ở miền Bắc. Sự cắt đứt liên hệ chính trị giữa Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh), sự phân tranh Nam Bắc và chia đôi lănh thổ đă là cơ hội để tạo nên một chi nhánh văn hóa mới xa dần văn hóa cổ truyền. Đến thế kỷ XVII khi Họ Nguyễn chiếm hết cả miền Trung và rồi một số người miền Trung vào khai phá miền Nam khẩn hoang lập ấp xây dựng nên miền Nam th́ một chi nhánh văn hóa khác nữa lại thành h́nh. Chi nhánh văn hóa mới này lại càng cách biệt với văn hóa gốc ở miền Bắc để đến gần văn hóa Đông Nam Á hơn (tức cũng có nghĩa xa dần văn hóa Trung Hoa và đến gần văn hóa Ấn Độ hơn). Miền Nam là cả một vùng đất hoang mênh mông chằng chịt sông rạch với không biết là bao nhiêu cá tôm rau cỏ cây trái. Đất đai lại rất ph́ nhiêu do phù sa mang lại. Khẩn hoang lập nghiệp tuy có cực nhọc nặng nề nhưng kết quả thu lượm dễ dàng và khả quan, đời sống tự nhiên ung dung thoải mái. Điều kiện vật lư đó cũng dễ un đúc nên tính t́nh rộng răi, phóng khoáng, hiếu khách, đối đăi tử tế với người từ xa mới đến của người miền Nam mà nhiều người công nhận. Vùng mới lập này tuy có ít nhiều liên hệ với Chúa Nguyễn nhưng triều đ́nh ở xa, tổ chức cai trị không chặt chẽ tùy thuộc ở triều đ́nh Huế (chế độ tổng trấn), thêm vào đó c̣n có những biến cố chính trị làm thay ngôi đổi chủ nhiều lần cho nên tương đối có nhiều tự do địa phương và tự do cho cá nhân nữa. Chỗ này ở không được, hoặc bị áp bức th́ nhổ sào, chèo ghe đi chỗ khác làm ăn, không có ǵ ràng buộc họ được. Hoàn cảnh đặc biệt ở đây giúp người ta nuôi dưỡng tinh khí tự do phóng khoáng, không cần phải ép ḿnh, chế ngự cái tôi để phụng sự cho một lư tưởng sách vở ǵ cả. Vả lại nỗ lực chính của những thế hệ đầu tiên vào đây là khai khẩn đất đai, thiết lập đời sống mới nhiều hơn là trau dồi kinh sử để lănh lấy măo áo chức tước của triều đ́nh. Đời sống dễ dăi, tương đối thừa thăi về vật chất và tự do về tinh thần, đă không bắt buộc người dân Việt ở đây phải duy tŕ hay theo đúng những phong tục tập quán đă được mang vào Đàng Trong từ mấy thế kỷ trước. Sự lỏng lẻo của khuông phép từ thế hệ này sang thế hệ khác đă tạo nên một nếp sống mới, một tính t́nh và nhân cách mới, rộng răi và phóng khoáng, với tâm hồn chân thật, chất phác, mở rộng để đón nhận những cái mới lạ hơn là khép kín để duy tŕ những cái đă có. Ngoài hoàn cảnh địa lư nói trên, trong quá tŕnh mở rộng đất đai về phương Nam chi nhánh văn hóa Đàng Trong đă phải tiếp xúc va chạm với những nền văn hóa khác tạo nên điều kiện rất cần cho sự biến đổi về văn hóa. Có tiếp xúc với văn hóa khác là có cơ hội để nh́n thấy lối sống, cách hoạt động, sự tín ngưỡng, lề lối suy tư của một giống người khác. Từ đó có thể có những thích nghi với nhau hay vay mượn lẫn nhau ít nhiều từ tập quán, kỹ thuật, đến tín ngưỡng và nghệ thuật. Từ thế kỷ XVII người Đàng Trong đă có cơ hội gần gũi với văn hóa Chiêm Thành, đă nh́n thấy và hiểu biết lối sống của người dân Chăm. Sau đó sang thế kỷ XVIII người Việt khi bành trướng lănh thổ về miền Nam lại có dịp sống bên cạnh người Miên và người Trung Hoa (Minh Hương, Triều Châu). Và gần đây hơn từ thế kỷ XIX người Việt ở đây lại có nhiều dịp để biết đến đạo Thiên Chúa cùng văn minh Tây Phương do người Pháp mang đến. Thí dụ như ở Cà Mau (tỉnh lỵ An Xuyên), vào khoảng thập niên 1960, thống kê cho biết dân số là 270,643 người trong đó có 3,048 người Việt gốc Hoa, và 2,959 người Việt gốc Miên, với 22,000 Tịnh độ cư sĩ, 15,000 Công giáo, 3,700 Thiền Lâm, 3,200 Cao Đài, và 400 Tin Lành. Người Việt gốc Miên ở Trà Vinh, Sóc Trăng rất nhiều và người Triều Châu rất đông ở Bạc Liêu đến đổi người dân Nam phải nói “Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu”. Có thể nói miền Nam cũng na ná như xứ Mỹ, nó là một xă hội mới thành h́nh với nhiều chủng tộc sống lẫn lộn trong đó và với một nền văn hóa ít nhiều pha trộn đủ thứ. Nó như cái “melting pot” hay cái “salad bowl” của Việt Nam. Nó mang rất ít tính chất cổ truyền của nền văn hóa gốc. Thật ra th́ sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa các nền văn hóa mới chỉ là điều kiện cần mà thôi chớ chưa phải là điều kiện đủ để cho sự vay mượn, học hỏi xảy ra. Điều kiện đủ để đưa đến vay mượn và thích nghi văn hóa là sự có mặt của những yếu tố sau đây: (1) tinh thần khai phóng của người vay mượn, (2) sự tự do chấp nhận cái mới lạ của người vay mượn, và (3) sự lợi ích của những ǵ được vay mượn học hỏi. Văn hóa không thay đổi nếu các thành phần trong nền văn hóa đó không có tinh thần cởi mở, không chấp nhận những cái mới lạ của nền văn hóa khác. Mặt khác dù các thành phần chấp nhận những cái mới lạ của văn hóa khác đi nữa nhưng không có tự do để học hỏi, thực hiện th́ văn hóa cũng không có cơ hội thay đổi. Chẳng hạn như nếu luật lệ của quốc gia quá cứng rắn không cho phép người dân chấp nhận hay du nhập những cái mới lạ, hoặc giả nếu như phong tục tập quán trong xă hội quá khắt khe khiến người ta không thể đi ra ngoài những thói quen đă có th́ sự thay đổi về văn hóa tất nhiên sẽ khó xảy ra. Phải có đủ tự do để học hỏi và thực hiện điều ǵ mới lạ trong cuộc sống th́ sự biến đổi về văn hóa mới diễn tiến được. Sau hết người ta chỉ học hỏi vay mượn khi nào điều người ta muốn học hỏi vay mượn đó đáp ứng được nhu cầu sinh sống của con người. Những điều kiện trên đây cần phải có đủ th́ văn hóa mới có thể thay đổi được. Người Việt Nam trong quá tŕnh bành trướng lănh thổ và định cư vào Phương Nam đă có đủ những điều kiện ghi trên. Họ có tinh thần rộng răi khai phóng, không mù quáng tôn sùng cổ nhân, không khép kín chật hẹp hay bế quan tỏa cảng. Họ có ít nhiều tự do chớ không bị chặt chẽ ràng buộc bởi luật lệ cứng rắn của triều đ́nh hay tập quán khắt khe của xă hội. Khi đă có đủ những điều kiện cần và đủ th́ tất nhiên văn hóa phải thay đổi theo lối sống thay đổi của con người ở vùng đất mới mẻ này. Những khác biệt này là những biến đổi tự nhiên của văn hóa Việt Nam qua bao nhiêu thế hệ và qua quá tŕnh bành trướng lănh thổ, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác. Biến đổi để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh mới, đó là điều kiện cần yếu để một nền văn hóa sinh tồn và tiến bộ. Khi văn hóa biến đổi nó cũng làm cho con người ít nhiều biến đổi theo. Có sự tương quan khá mật thiết giữa văn hóa và nhân cách của con người. Người ta hay nói đến tính bộc trực, ăn ngay nói thật, tính rộng răi chiều khách, tính anh hùng ngang tàng của người dân miền Nam, kể cả tính bất cần và không thèm kiên nhẫn của người dân vùng này. Người dân Miền Nam, hay người Nam Kỳ, tuy nói gốc gác phần nhiều là dân Thuận Quảng, nhưng nói chung đều là người từ Miền Bắc vào Miền Trung (Đàng Trong) rồi từ Miền Trung vào Miền Nam (nếu là dân Thuận Quảng), c̣n không th́ có thể từ Bắc, Trung vào Nam. Có người vào Nam trước, có người vào Nam sau. Nhưng trước hay sau, lâu hay mau ǵ th́ cũng được “Nam Kỳ hóa” ít hay nhiều. Bởi cái đặc tính của xứ Nam Kỳ là rất cởi mở, rộng răi, dễ thương, nên dễ dung nạp, dễ cảm hóa người mới đến để họ hội nhập vào đại gia đ́nh Đồng Nai Cửu Long mà nhà văn hóa học có thể xem như một cái tô xà lách (”salad bowl”) của mọi người. Ảnh minh họa: Vi Lang/Viễn Đông Vien Dong Daily News |