Nghệ thuật Điêu Khắc

   

       Nghệ thuật điêu khắc

       Nghệ thuật điêu khắc chiếm một địa vị quan trọng trong xã hội Việt Nam. Công trình điêu khắc từ đời Lý Trần nhất là dưới thời vua Lê Cảnh Hưng ở thế kỷ 18 tập trung vào các đình chùa, cung điện vua và vào nhà các quan.  Các điêu khắc gia chú trọng vào lối chạm trổ rồng  phượng.  Chùa chiền, cung điện vua, nhà các quan thường có chạm trổ kỹ càng và sơn son thiếp vàng lộng lẫy, trên mái có hình  rồng phượng, và được trang sức loanh quanh trong mấy kiểu  Tam Đa, Ngũ Phúc, Tứ Linh , Tứ Quý và những đường triện hình chữ Phúc,, Thọ, Khang, Ninh.  Điêu khắc  chế tạo ra những tượng cùng đồ tự khí dùng vào việc tế tự cho đình miếu chùa chiền.  Điêu khắc chế tạo ra các  tự khí như hương án , long đình, phượng liễn, long ngai.  Rồi kế tiếp điêu khắc tạc tượng gỗ, tượng đá, đắp tượng đất, tạc bia đá và đúc tượng đồng. Tượng gỗ, tượng đất, trộn giấy cùng tượng đồng hình dung các Phật đều phải theo khuôn  theo những bộ điệu nhất định , trừ ra những tượng La Hán, những cảnh địa ngục tại các chùa và những tượng thuộc về Lão Giáo, thì dáng điệu tùy ở sáng kiến của người thợ liệu mà biến báo thay đổi.

Tượng Phật thì đều thếp vàng son, chỉ có tượng thuộc về Lão Giáo mới có sơn mầu sặc sỡ, đó là một đặc tính  dễ nhận thấy trong lối điểm xuyết phụ vào thuật điêu khắc.  Nghề đúc đồng làm chuông cho các chùa và các nhà thờ Thiên Chúa Giáo, những đồ  tam sự, và ngũ sự đã tiến bộ nhiều trong những năm vừa qua.  Đá  dùng trong  nghề điêu khắc là đá vôi. Đá vôi xanh dùng tạc  những tượng sơ sài đặt thành hai hàng trong sân đình miếu như đền Hồng Vân trên ngọn đồi  Lim thuộc phủ Từ Sơn Bác Ninh.

Đá hoa Quảng Nam chỉ dùng để tạc những tượng nhỏ Các bia đá để kỷ niệm , chẳng hạn tấm bia ở đài Nam Giao cũ tại Hànội và bia dựng trên lưng rùa bằng đá lớn tại Văn Miếu Hànội đều là những công trình điêu khắc có giá trị.  Nghệ thuật điêu khắc còn sản xuất ra những công trình mỹ thuật khác  như hình rồng uốn khúc hai bên thềm  bực đá các đình miếu.  Gần đây trường Viễn Đông Bác Cổ đào trong chùa Phật Tích được những hình người có cánh, hoặc có cặp vú phồng to cùng chân tảng đá có hình người thổi sáo, hoặc những mảnh sứ có hình  cành hoa quấn quanh co.  Qua những  di tích tại chùa này dựng từ triều Lý thế kỷ 12, ta thấy ảnh hưởng của thuật điêu khắc văn hóa Chàm.  Có lẽ binh chàm đã dự vào việc xây dựng chùa này, cho nên tuy phải chạm theo kiểu Việt, mà tính cách nghệ thuật của dân tộc Chàm vẫn phát lộ qua những nét phụ

Dần dà ngành  điêu khắc mới đi xuống nhà cửa dân chúng. Các gian ngoài nhà được trang trí bằng bao lam chạm khắc tinh tế cây trái như:dưa,cà, cam xoài, lê, lựu với ngụ ý mong ước được phồn thịnh ấm no, hoặc chạm khắc chim trĩ quấn theo hoa dây hóa long để tượng trưng cho tinh thần  phóng khoáng và trường tồn, hoặc  chạm khắc  hình tượng long mã. Long mã, theo truyền thuyết, là một linh vật mình rồng thân ngựa hiền lành biểu hiện  sự  thiện chân.  Gian giữa được trang trí bằng  tứ thời ( mai,lan,cúc, trúc) và tứ linh (long, lân,qui,phượng) và hai bao lam, chạm trổ con sóc chùm nho, với ngụ ý mong ước được vui vầy ấm no, chạm trổ con dơi với ngụ ý mong ước được phúc đức đời đời.  Gian giữa này cũng được trang trí bằng những tấm gỗ gõ ghép lại, chạy chỉ nổi, có cưa lộng hình nấc thang tháp, lục bình  ( bắt chước trang trí của người Miên xưa kết hợp với chữ Thọ hình vuông và kết họp với bức hoành nổi bật ba chũ Hán Phước Lưu Đường. 

Vào cuối thế kỷ 20, các điêu khắc gia Việt đặc biệt chú trọng vào việc đúc các ảnh tượng nhỏ để làm đồ trang sức cho phụ nữ, trẻ em, và cả cho  những dấng  nam nhi nữa.  Họ đã sản xuất các loại ảnh  Thánh Gía Chúa, ảnh chân dung Chúa, ảnh chân dung Đức Phật.  Đặc biệt có nhiều người đeo ảnh  Thánh Gía Chúa mà lại chẳng phải là người tín đồ của đạo Chúa. Ngoài ra các trẻ sơ sinh còn đeo ảnh vật Kỳ Lân làm bùa hộ mạng.

                     Xin coi  Đồ Gốm      và xin coi  Kiệt  Tác Gốc Tre

     KP