Người Dao tại Việt Nam
Tới đây, họ di chuyển theo các hướng khác nhau là:
|
||||
Địa bàn cư trúDân tộc Dao cư trú chủ yếu ở biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Ḥa B́nhv.v Tại Việt Nam, dân số người Dao theo điều tra dân số năm 1999 là 620.538 người Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Dao ở Việt Nam có dân số 751.067 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dao cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708 người, chiếm 15,1 % dân số toàn tỉnh và 14,6 % tổng số người Dao tại Việt Nam), Tuyên Quang (90.618 người, chiếm 12,5 % dân số toàn tỉnh và 12,1 % tổng số người Dao tại Việt Nam), Lào Cai (88.379 người, chiếm 14,4 % dân số toàn tỉnh và 11,8 % tổng số người Dao tại Việt Nam), Yên Bái (83.888 người, chiếm 11,3 % dân số toàn tỉnh và 11,2 % tổng số người Dao tại Việt Nam), Quảng Ninh (59.156 người, chiếm 5,2 % dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn (51.801 người, chiếm 17,6 % dân số toàn tỉnh), Cao Bằng (51.124 người, chiếm 10,1 % dân số toàn tỉnh), Lai Châu (48.745 người, chiếm 13,2 % dân số toàn tỉnh), Lạng Sơn (25.666 người), Thái Nguyên (25.360 người) Nhà cửa của người Dao Sa Pa (Lào Cai). Mặt sau nhà nửa sàn nửa trệt của người Dao - Phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Mặt bên nhà nửa sản nửa trệt của người Dao - Phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. |
||||
Dân tộc Sán D́u ở Việt Nam thuộc về nhóm ngôn ngữ Hoa di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay ở thành từng cḥm xóm nhỏ,sống ở miền các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Cạn, trung du Bắc bộ..Năm 2009, dân số khoảng 126.000 người. Người Sán D́u ăn cơm tẻ là chính, có độn thêm khoai sắn. Sau bữa ăn, họ thường húp thêm bát cháo loăng như người Nùng.. Ngoài ra họ c̣n hay uống rượu trong si. ![]() Nhà cửa Nhà Sán D́u là nhà đất. Mỗi khi có ai làm nhà th́ mọi người trong họ, trong làng tự đến giúp đỡ, chủ nhân không cần phải mời giúp. Trong lễ lên nhà mới, chủ nhà mời người cao tuổi trong họ đem lửa, b́nh vôi, ít hạt giống vào nhà. Thờ cúng: Trên bàn thờ thường đặt ba bát hương thờ tổ tiên, pháp sư và táo quân. Nếu chủ nhà chưa được cấp sắc th́ chỉ có hai bát hương. Những người mới chết chưa kịp làm ma cũng đặt bát hương lên bàn thờ nhưng để thấp hơn. Ngoài ra, người Sán D́u c̣n thờ thổ thần ở miếu thờ thành hoàng ở đ́nh. Trang phục
.Người Sán D́u đă và đang đổi thay gần giống trang phục người Kinh. Nam giới: ăn mặc như người Việt: búi tóc vấn khăn hoặc đội khăn xếp, áo dài thâm, quần trắng Nữ giới: bộ y phục truyền thống gồm khăn đen, áo dài (đơn hoặc kép), nếu là áo kép th́ bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng c̣n chiếc bên ngoài màu chàm dài hơn một chút; yếm màu đỏ; thắt lưng màu trắng, hồng hay xanh lơ; váy là hai mảnh rời cùng chung một cạp, chỉ dài quá gối có màu chàm; xà cạp màu chàm; xà cạp màu trắng. Đồ trang trí gồm ṿng cổ, ṿng tay, hoa tai và dây xà tích bằng bạc. Phong tục Bên cạnh bộ máy chính quyền, ở các làng c̣n có người đứng đầu làng do dân bầu ra để quản lư công việc chung. Lễ tết: Người Sán D́u theo âm lịch .Có những ngày tết như nhiều dân tộc ở trong vùng. Riêng tết Đông chí c̣n mang thêm ư nghĩa cầu mong có con đàn, cháu đống. Những người đă lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con th́ sau khi ăn tết xong người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó tổ chức cưới lại như là cưới vợ mới. Văn nghệ: Giống như ở nhiều dân tộc khác, người Sán D́u cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ gọi là soọng cô, thường được hát về đêm. Có những cuộc hát kéo dài suốt nhiều đêm. Ăn trầu: Phụ nữ Sán D́u tập quán ăn trầu và thường mang theo ḿnh chiếc túi vải đựng trầu h́nh múi bưởi, có thêu nhiều hoa văn sặc sỡ, và kèm theo là con dao bổ cau có bao bằng gỗ được chạm khắc trang trí đẹp. Gia đ́nh: Trong nhà, người chồng (cha) là chủ, con theo họ cha, con trai được thừa hưởng gia tài.. Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương nhưng có thành vợ thành chồng hay không họ lại tuỳ thuộc vào "số mệnh" và sự quyết định của bố mẹ.Đám cưới gồm nhiều nghi lễ. Đáng chú ư nhất có lễ khai hoa tửu diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô dâu về nhà chồng. Người ta lấy một b́nh rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa, miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có xâu chỉ đỏ và buộc ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng th́ bóc trứng lấy ḷng đỏ hoà với rượu để mọi người uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể. Mồ mả Người Sán D́u khi ma chay hạ huyệt, con cái phải từ phía chân quan tài ḅ một ṿng quanh miệng huyệt. Con trai ḅ từ trái sang phải c̣n con gái ḅ từ phải sang trái, vừa ḅ vừa xô đất lấp huyệt. Lúc đứng dậy, mỗi người vốc một nắm đất và chạy thật nhanh về nhà bỏ vào chuồng trâu, chuồng lợn... với ư nghĩa cho gia súc sinh sôi, nảy nở. Tiếp đó chạy vào nhà và ngồi xuống thúng thóc với quan niệm ai dính nhiều thóc là may mắn. Cuối cùng, mỗi người tự xé lấy một miếng thịt gà luộc để ăn, ai đến trước nhất được mào gà, tiếp theo được đầu, cổ, cánh... Nhà mồ có mái bằng, lợp lá rừng. Khi cải táng, xương được xếp vào tiểu hoặc chum theo tư thế ngồi và nếu chưa chọn được ngày tốt th́ chôn tạm ở chân đồi hay bờ ruộng . Đến ngày Thanh Minh hàng năm th́ tảo mộ. Lễ tảo mộ thường là cá và cơm nếp (các loại cá trừ cá Rô phi). Ngoài ra có thể là thịt lơn, Gà luộc... Trong mỗi mộ phải có 1 bộ cờ dây (5 cờ) được làm từ giấy với đủ loại màu khác nhau.:Hoạt động sản xuất: Người Sán D́u làm ruộng nước nhưng canh tác ruộng khô là chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai, sắn... họ c̣n trồng nhiều cây có củ. Từ rất lâu họ biết dùng phân bón ruộng. Thêm vào đó c̣n có chăn nuôi, khai thác lâm sản, đánh bắt nuôi thả cá, làm gạch ngói, rèn, đan lát v.v Phương tiện vận chuyển: Ngoài Gánh c̣n sử dụng xe quệt như là một phương tiện vận chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, dùng để vận chuyển tất cả mọi thứ, từ thóc lúa, củi đuốc cho đến phân bón. Do không có bánh bên xe quệt có thể sử dụng ở nhiều loại địa h́nh khác nhau. H́nh thức gánh trên vai hầu như chỉ dùng cho việc đi chợ. Văn Nghệ Thơ ca dân gian của người Sán D́u phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt. Hát đối nam nữ (Soọng cô) rất phổ biến. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh la, năo bạt. Nhiều tṛ chơi dân tộc được họ ưa thích là: đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông, kéo co |