Các quần đảo Hoàng Sa (Paracel islands) 

                         và Trường Sa (Spratley islands) 

 

 

  1-Quần đảo Hoàng Sa

Dân đánh cá Việt Nam đă sống trên những đảo này và khai thác đảo từ lâu đời. Tài liệu sớm nhất mà Việt Nam c̣n có được là quyển “Tuyển tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ đồ thư” của Đỗ Bá, viết vào thế kỷ XVII.

nNăm 1833, vua Minh Mệnh cho đặt bia đá trên quần đảo Hoàng Sa và xây chùa.

nQuần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng ḥa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent group) ..Hoàng Sa cách Đà nẵng  khoảng 200, dặm theo bài viết  của Phi công Lư Long  về trận hải chiến  giữa  Trung Quốc và Việt nam. Phi công Lư Long  viết rằng :"  Thực ra Hoàng Sa  nằm trong tầm oanh tạc của F5 ( từ Đà nẵng ) có đủ nhiên liệu bay đến ném bom rồi trở về. Tuy nhiên oanh tạc  Hoàng Sa không đơn giản  như những phi vụ hành quân  trong lănh thổ  của ḿnh từ trước tới nay v́ phi cơ không chỉ gặp  mối nguy hiểm là súng pḥng không. Tại Hoàng Sa, ngoài súng pḥng không trên tầu chiến, c̣n có phi cơ Mig 21 đang bay bao vùng  24/24 và sẵn sàng tấn công bất cứ phi cơ nào bay vào không phận Hoàng Sa.  Do đó nếu đánh Hoàng Sa, chắc chắn sẽ có không chiến.

Quần đảo Hoàng  Sa cách Đà nẵng 20, nhưng chỉ cách đảo Hải Nam 120 dặm, như vậy phi cơ Trưng Cộng  sẽ có ưu thế về địa lợi hơn chúng ta"

 

 
   

                        

   2- Quần đảo Trường Sa ?

 

       Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy của Việt Nam.  Một Đoạn video  trong internet về chuyến đi mới đây của một nhóm người đến đảo Song Tử Tây, một hải đảo thuộc quần đảo Trường Sa, cho thấy cảnh một sĩ quan hải quân XHCN  Việt Nam giải thích cho những người trong chuyến đi về một cột mốc bằng xi măng dựng trên đảo.  Người quân nhân này vừa chỉ vào tấm bia xi măng vừa nói rằng cột mốc là một bằng cớ quan trọng có thể dùng để trưng ra làm bằng cớ về chủ quyền của Việt Nam trên đảo.

 

Người quân nhân này chỉ vào tấm bia có từ ngày 22 tháng 8 năm 1956 do hải quân Việt Nam Cộng Ḥ̣a dựng lên. Tấm bia ghi rơ quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng Ḥ̣a  Người quân nhân nói rằng tấm bia rất quan trọng v́ nó chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên đảo. Ông ta nói thêm đó là bằng chứng lịch sử xác thực do hải quân của “chế độ cũ”, tức là chế độ Ngô Đ́nh Diệmdựng lên. Kế đó, Ông ta nói thêm đó là tấm bia ghi rơ Việt Nam Cộng Ḥ̣a chứ không phải Cộng Ḥ̣a Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Rồi Ông ta chỉ vào một chi tiết khác của tấm bia và nói đó là biểu tượng của “ngụy quân Sài G̣̣n và chính phủ Ngô Đ́nh Diệm.”Người quân nhân này chỉ vào tấm bia có từ ngày 22 tháng 8 năm 1956 do hải quân Việt Nam Cộng Ḥ̣a dựng lên. Tấm bia ghi rơ quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng Ḥ̣a  Người quân nhân nói rằng tấm bia rất quan trọng v́ nó chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên đảo. Ông ta nói thêm đó là bằng chứng lịch sử xác thực do hải quân của “chế độ cũ”, tức là chế độ Ngô Đ́nh Diệmdựng lên. Kế đó, Ông ta nói thêm đó là tấm bia ghi rơ Việt Nam Cộng Ḥ̣a chứ không phải Cộng Ḥ̣a Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Rồi Ông ta chỉ vào một chi tiết khác của tấm bia và nói đó là biểu tượng của “ngụy quân Sài G̣̣n và chính phủ Ngô Đ́nh Diệm.”

 

               

 

 
 

 

Các con muốn dùng những thứ ấy trong những tranh chấp về lănh thổ với Bắc Kinh th́ trước hết, các con phải bỏ ngay cái lối ăn nói  gọi chính phủ ở miền nam vĩ tuyến thứ 17   trước năm 1975 là “ngụy quyền”   th́ mới có thể trưng ra những bằng cớ hợp pháp về chủ quyền của Việt Nam tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Làm như thế mới có được sức mạnh đoàn kết của toàn dân mà các con rất cần vào lúc này. Phải công khai nh́n nhận các nỗ lực và hy sinh của người dân và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đối với toàn vùng lănh thổ của đất nước.

Nên nhớ tấm bia của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa dựng lên ngày 22 tháng 8 năm 1965 không có nghĩa là chỉ từ ngày đó trở đi, chủ quyền của Việt Nam mới có trên đảo, mà c̣n cả trước đó nữa. Bắc Kinh không hề có bất cứ một chứng cớ nào có thể đưa ra về chủ quyền của chúng trên các đảo này                  (  Tài liệu rút ra từ bài viết của tác giả   Bùi Bảo Trúc)

3-Làm thế nào  để lấy lại chủ quyền

               hai quần đảo Hoàng Sa  và Trường Sa?

          Một trở ngại lớn cho sự  dành lại chủ quyền hai quần đảo này là  bức công hàm  của Thủ Tướng Phạm văn Đồng  ngày  14 tháng 9 năm 1958:

Tấm bia của Việt Nam Cộng Ḥa dựng lên ngày 22 tháng 8 năm 1956 th́ ngày 14 tháng 9 năm 1958, tức là sau ngày dựng tấm bia hai năm, th́ thủ tướng Phạm Văn Đồng của chính phủ miền Bắc Việt nam gửi một công hàm cho thủ tướng Chu Ân Lai chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 58 về hải phận của Trung Hoa của chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa. Cũng trong bức công hàm ô nhục đó, thủ tướng Phạm Văn Đồng c̣n viết thêm là sẽ “chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng quyết định của Bắc Kinh trong mọi quan hệ với nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể”.

   Làm thế nào vô hiệu hóa được cái công hàm đó?

 

Xin xem  2  video  về   đảo  Hoàng  Sa và đảo  Trường Sa:

1/    hăy click     Paracel&Spratly

2/    hăy click      Haỉ chiến  Hoàng Sa và Trường Sa

 

Bài Sưu tầm của PXK     

 
 

 

                                          

                  Thư Tịch Trung Hoa Thừa Nhận

                              Hoàng Sa, Trường Sa  Thuộc VN      

                                                                   Báo GiáoDụcViệtNamNet 2011/07

 

           

Theo chính sử Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rơ hơn, không có câu chữ nào ghi rằng Biển Đông (TC gọi là Biển Nam Trung Hoa) với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (TC gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền của TC.

Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đă thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

 

Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn “Lịch Sử nước Tàu Thời Trung Cổ” do Hàn Lâm Viện TC xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa lư” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau : "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hoá và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đạidương”. Theo các tài liệu lịch sử chính thống “thảng hoặc triều đ́nh Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rơ nét nhất là tại Thái B́nh Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX). Dưới đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hoà chỉ huy những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con Đường Tơ Lụa tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông.  Những chuyến hải hành của phái bộ Trịnh Hoà không phải để chinh phục Biển Đông nơi có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều đ́nh nhà Minh đă phê phán những cuộc hải tŕnh nặng phần tŕnh diễn của Trịnh Hoà đă góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia. Sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đă xác nhận nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán.

 

Theo đó, năm 111 TCN, sau khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đă rút quân khỏi đảo Hải Nam. Măi tới đời nhà Lương và nhà Tuỳ (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lư Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa không nên đến gần v́ chỉ đi sai một tí là có thể ch́m đắm. Nhan đề sách là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước ngoài. Vạn Lư Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về Trung Hoa mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam. Một trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư nước Tàu đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt. Đời nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu Dị Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đă khẳng định quần đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam).

 
   

Trong đời Nam Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận : "Vạn Lư Trường Sa (Hoàng Sa) toạ lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống cũng xác định giới hạn lănh thổ của nước Tàu với các nước khác ở Giao Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà Tống đă cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về nước Tàu mà thuộc về nước khác mà nước Tàu gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao Chỉ. 

 

Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đă 3 lần đánh tan quân Nguyên – Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh Nhật Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ đời Thành Cát Tư Hăn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không c̣n ḍm ngó Đại Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và XIV, theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ư định xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa vàTrường Sa. Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực hiện năm 1561 phần cực nam lănh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam.

 

Đời nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635) đă vẽ phần cực Nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hoà Hàng Hải Đồ cũng không thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ tŕnh và hải đạo của Trịnh Hoà sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương (Tây Dương). Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đă trở thành lănh thổ của Đại Việt. Lưu ư rằng từ năm 1427 Lê Lợi đă đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407). 

Đời nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đ́nh nhà Thanh ấn hành năm 1894 th́ đến cuối thế kỷ XIX "lănh thổ của nước Tàu chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này c̣n được xác nhận trong cuốn Trung Hoa Địa Lư Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau : “Điểm cực Nam của nước Tàu là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa toạ lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngăi) và quần đảo Trường Sa toạ lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đ́nh nhà Thanh ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi theo cách gọi của TC là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức ...).

 

Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Kư, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) chép : "Vạn Lư Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cơi nước An Nam”. Như vậy, tư liệu này của nước Tàu đă thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lănh thổ trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lư Đại Thanh Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lư Trường Sa hay Vạn Lư Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quưnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa đă phủ nhận trách nhiệm với lư do : "Hoàng Sa không liên hệ ǵ tới nước Tàu”. Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà sư thời Khang Hy đă đến đất Thuận Hoá của chúa Nguyễn ngày 29 tháng Giêng năm Ất Hợi (13/03/1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng Biển Đông nơi toạ lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII.

 

Các tài liệu cổ của Trung Hoa rơ ràng cho thấy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà TC gọi là Tây Sa và Nam Sa) đă được người Việt Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một cách hoà b́nh và liên tục không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào kể cả của nước Tàu. Điều đó được minh chứng từ tư liệu chính sử của nhiều triều đại nước Tàu trong đó đă mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn 22 thế kỷ từ thời Tần, Hán cho đến đầu thế kỷ XX.

"Nước Tàu Không Hề Có Thư Tịch Ǵ Về Trường Sa, Hoàng Sa"

 

 

Thiếu Tướng VC Nguyễn Trọng Vĩnh, C/N 2011/07 Là người có thâm niên 13 năm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại TC ở thời điểm nhạy cảm nhất (1974-1989), Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh có những đánh giá rất sâu sắc về hành động và ư đồ của TC trên Biển Đông. Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh từng giữ các chức vụ Chính Uỷ Khu 1 (1947), Cục Trưởng Cục Tổ Chức Tổng Cục Chính Trị (1950) ; Chính Uỷ Quân Khu 1 (1958), Bí Thư Tỉnh Uỷ Thanh Hoá (1961-1964), Uỷ Viên Dự Khuyết Trung Ương Đảng (1960-1976).  - Ông có bất ngờ về sự việc tàu TC liên tục cắt cáp tàu Việt Nam ?

 - Tôi không bất ngờ.- Là người sống và làm việc 13 năm tại Bắc Kinh với cương vị Đại Sứ đặc mệnh toàn quốc Việt Nam, có bao giờ ông được chính phủ TC trưng ra bằng chứng về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ ?

- Chưa lần nào ! Tôi sống tại TC nhiều năm nhưng chưa lần nào thấy họ nói chính thức về vấn đề này. Tôi cũng đă nhiều lần lần t́m thư tịch của họ để t́m hiểu xem chứng cứ chủ quyền nếu có của họ về hai quần đảo này nhưng không hề có.

- Vậy những dữ kiện mà họ nói do Tướng Trịnh Hoà (thời nhà Minh) thu thập được khi đến đảo Hoàng Sa th́ sao ?

 

- Tôi cam đoan đó chỉ là hàng giả ! Đó chỉ là trên phim của họ, họ tả là tướng Trịnh Hoà đem thương thuyền đi xuống Ấn Độ Dương. Họ lướt chỗ nọ chỗ kia coi như ḍ đường thôi chứ có phải đi thực hiện chủ quyền đâu. Như vậy những chứng cứ do Trịnh Hoà thu được không đủ làm căn cứ để xác định chủ quyền của họ ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phải là quản lư th́ mới khẳng định chủ quyền chứ. Tôi nói giả sử, đi qua nhặt được cái ǵ đó th́ đó đâu phải là thực thi chủ quyền. “Sự việc cắt cáp làm rơi mặt nạ hoà b́nh của TC” - Ông đánh giá ǵ khi TC liên tiếp có các hành vi gây hấn, thách thức sự kiên nhẫn, ḷng yêu nước, trân trọng hoà b́nh của người dân Việt Nam ?

 

- Tôi đă có 13 năm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại TC. Đó là thời gian quan hệ Việt Nam và TC trong thời gian cam go, thử thách nhất. Sỡ dĩ nói rằng không bất ngờ v́ tôi ở TC đă lâu, đă biết bản chất của TC là bá quyền nước lớn. Tư tưởng bành trướng bá quyền nước lớn, ngàn năm cũng chưa từ bỏ.  Cho nên những việc họ làm, không chỉ tàu B́nh Minh 02, Viking mà trước đây từ việc chiếm quần đảo Hoàng Sa, một số đảo ở quần đảo Trường Sa, bắt ngư dân, cấm ngư dân đánh cá ... là biểu hiện của chủ nghĩa bá quyền nước lớn. Đến sự việc này, tôi không lạ nữa. Một lư do khác, đến thời điểm này, họ có tham vọng bá chiếm cả tài nguyên của Biển Đông, v́ họ thiếu thốn, thèm khát dầu khí. Khi họ thấy ta thăm ḍ định khai thác, th́ họ phải t́m cách cản trở.  Dù đă bị ta phản đối, nhân dân, báo chí, dư luận Việt Nam và quốc tế chỉ trích sau sự việc ngày 26/05 (tàu B́nh Minh 02 bị tàu hải giám TC cắt cáp thăm ḍ dầu khí – PV) nhưng với tính chất ngoan cố, ngang ngạch và cậy là kẻ mạnh, họ lại tiếp tục gây ra sự việc với tàu Viking 2. 

 Tôi có thể kết luận, hai vụ việc xảy ra với tàu B́nh Minh 02 và Viking làm rơi mặt nạ hoà b́nh mà TC vẫn đeo, lộ ra nguyên h́nh bộ mặt bá quyền nước lớn ăn hiếp nước nhỏ, nói một đằng làm một nẻo. “Cố t́nh đổi trắng thay đen” - Tuy nhiên, vẫn có một số ư kiến cho rằng v́ đă hoàn tất đàm phán, phân giới cắm mốc trên bộ nên đây là thời điểm TC tỏ ra cứng rắn hơn tại Biển Đông ? - Không phải. Mọi hoạt động vừa qua chỉ cho thấy TC đang từng bước làm mọi điều v́ lợi ích ích kỷ cho họ. Ngay từ giai đoạn giữa những năm 1970, khi tôi là Đại sứ tại TC, hai bên Việt Nam và TC đă tiến hành đàm phán phân định cắm mốc biên giới trên bộ, vịnh Bắc bộ. Nhưng phải đến gần đây quá tŕnh đàm phán mới hoàn tất.  - Ông nghĩ sao khi những ngày vừa qua, quan chức cũng như báo giới TC đăng tải những thông tin rất sai lệch về sự việc tại Biển Đông ? Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao TC c̣n ra tuyên bố yêu cầu phía Việt Nam chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm chủ quyền và tránh tạo ra những sự cố mới ? - Tuyên bố nêu trên của người phát ngôn Bộ Ngoại giao TC một lần nữa cho thấy họ cố t́nh “đổi trắng thay đen”, cố t́nh làm cho dư luận hiểu sai bản chất của vụ việc. Nhiều nước sẽ ủng hộ chính nghĩa của chúng ta - Trong bối cảnh này, theo ông Việt Nam nên xử lư ra sao ? - Chính sách của chúng ta là hoà b́nh, xưa nay đều thế. Thời điểm này, chúng ta phải đấu tranh lư lẽ một cách quyết liệt. Họ muốn bí mật, song phương ta th́ phải công bố toàn bộ các cứ liệu lịch sử cho nhân dân ta và dư luận thế giới thấy rơ ai phải ai trái. Thế giới biết và ủng hộ th́ TC không thể hung hăng được nữa. Tôi cũng muốn nói thêm, thời đại này muốn phát động vũ lực cũng không phải dễ dàng. Ta càng đấu tranh công khai, càng quốc tế hoá th́ thế của ta càng vững. - Hiện có nhiều ư kiến lo ngại sự chia rẽ trong các nước ASEAN về vấn đề Biển Đông cũng tựa như h́nh ảnh chia bó đũa thiếu sự kết dính.

 
 

 

TC có thể lợi dụng điều này để giải quyết vấn đề Biển Đông

 theo hướng có lợi cho họ ?

 

- Một là, nước nào cũng có lợi ích chung và riêng. Hai là, lợi ích trước tiên lúc này là lợi ích kinh tế. Điều đó là tự nhiên. Tất nhiên, về lư thuyết, thế giới là b́nh đẳng, nhưng trên thực tế, các nước lớn luôn dùng nhiều loại sức ép, cả chính trị, kinh tế và quân sự để áp đặt ư đồ của ḿnh lên các nước nhỏ.  Trong bối cảnh đó, giải pháp tối ưu là phải xác định được thế mạnh của bản thân ḿnh. Với trường hợp của ta, cần phải đẩy mạnh mặt trận ngoại giao - pháp lư, làm cho cả dân ta, dân họ và cả cộng đồng quốc tế hiểu và ủng hộ. Nếu ta công khai, th́ dù một số nước không có quyền lợi thiết thực gắn với Biển Đông, nhưng tôi chắc rằng họ sẽ lên tiếng, ủng hộ cho chính nghĩa, lẽ phải của chúng ta, của bạn bè.  - Quay trở lại thời gian ông làm đại sứ tại TC. Theo ông, báo giới và nhân dân TC nh́n nhận ra sao về tranh chấp tại Biển Đông ? - Nhân dân TC phần đông rất hữu nghị, trân trọng t́nh cảm với nhân dân ta. Ngay trong những năm 1979 – 1989, khi anh chị em tại Đại sứ quán ta tại TC đi chợ, nhân dân TC vẫn đối xử vẫn b́nh thường.  “Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền” - TC tuyên truyền ra sao về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông ?- Họ tuyên truyền rất mạnh, rằng Biển Đông là biển Nam Sa của họ. Họ giáo dục rất sâu trong nhà trường, chiếm nhiều tiết học ... - Vậy theo ông, chúng ta làm thế nào nói cho nhân dân TC hiểu được bản chất vấn đề ? - Ta cũng phải tuyên truyền, xuất bản văn kiện bằng tiếng TC trên mạng và nhiều h́nh thức khác.  - Dĩ nhiên, việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông hiện nay rất phức tạp. Theo ông hiện có những tồn tại, trở ngại chính nào trong tiến tŕnh giải quyết vấn đề ? - Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền. - Thời gian vừa qua, TC liên tục phát triển sức mạnh quân sự với tàu bay, tàu ngầm, tàu sân bay. Dư luận đặt câu hỏi, vậy đâu là sức mạnh Việt Nam ? - Nói về sức mạnh, không đơn thuần chỉ bao gồm những thứ đó. Dân tộc ta đă có kinh nghiệm hàng ngàn năm lấy ít đánh nhiều, nhỏ thắng lớn. Ngoài ra c̣n sức mạnh thời đại, thế giới họ nh́n thấy điều đó, ta phải nói cho họ biết. “Phải dạy lịch sử, t́nh yêu nước nhiều hơn nữa !”. -Muốn giải quyết những trở ngại đó, đâu là giải pháp ngắn hạn và dài hạn cho Việt Nam ? - Phải đấu tranh lư lẽ, bằng các tư liệu, bằng báo chí trước tiên. Đưa lên Liên Hiệp Quốc, nói cái phi pháp của họ ra. C̣n t́nh huống xấu hơn tôi nghĩ sẽ không xảy ra, khi cả thế giới hiểu được ta có chính nghĩa. Việc đó sẽ làm TC bớt hung hăng đi. Đồng thời chúng ta phải dạy lịch sử, t́nh yêu nước nhiều hơn nữa ... Tôi rất buồn khi ngày nay, nhiều con trẻ thuộc sử TC hơn cả sử ta, phim ảnh, truyền h́nh cũng vậy ... - Hiện có nhiều ư kiến đề nghị phải kiện TC ra Toà Án Quốc Tế, theo ông có nên ?

- Chúng ta phải tiếp tục kiên quyết đấu tranh và gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc tố cáo TC vi phạm Công Ước Luật Biển năm 1982. Chúng ta công khai các tài liệu để đấu tranh, cho thế giới biết thực chất vấn đề.