Mến điều Đạo Đức

 

 

Mến điều  đạo đức, trọng nhân nghĩa lễ trí tín. Đó là điểm mạnh của người Việt mà các  học giả  Văn Hóa Việt  đều xác nhận.  Để hậu thuẫn cho   sự nhận định của các học giả Việt,  tôi xin dẫn chứng một  vài câu chuyện có thật :

     Ḷng Nhân:

                40 năm cứu người bất hạnh

         (rút ra từ  tạp chí Trẻ  số 617 ngày 02 tháng 4 -2009 tr 165-167)

 

Ông Nguyễn văn  Chúc, một ngư phủ đă cứu biết bao mạng người suốt nửa thế kỷ quanh cầu B́nh Lợi, cây cầu từng nổi tiếng là điểm cuối cùng cho nhiều kẻ chán đời tự tử. Cuối tháng 3 vừa qua, ngồi trong  ḷng chiếc ghe, ông chậm răi  kể về đời ḿnh cho cô Xuân Hằng, phóng viên của tạp chí Trẻ. Ông kể rằng:

"Bố tôi người  Vĩnh Phú, di cư vào Nam từ năm 1954. Tôi là  con thứ ba. Tôi học hết lớp hai, biết đọc biết viết là nghỉ học., theo bố đi văi chài kiếm con tôm con cá. Lớn lên chẳng lính tráng ngày nào.  Lấy vợ sớm, đẻ liền  năm đứa con, toàn là con gái. Bây giờ  hai đứa lớn lấy chồng, hai đứa giữa buôn bán nh́ nhằng, đứa út vẫn đi học. Hai vợ chồng tôi ở dưới thuyền, nắng gắt lên bờ, ngồi nhờ hiên thềm  trong xóm. Hằng ngày trông coi 12 chiếc phao tiêu của cầu B́nh Lợi, cầu B́nh Triệu và cầu Sàig̣n kiếm cá, không để rác bám vào phao, không cho phao trôi khỏi vị trí, không để thuyền bè va  đập, không để tắt đèn ban đêm"… và 40 năm cứu người tự tử,vớt xác trôi sông."

Đây  câu chuyện 40 năm cứu người  qua  cuộc đối thoại giữa cô  Xuân Hằng và ông Chúc

Cô  Xuân Hằng hỏi: Tại sao lại cứu người?

Ông Chúc trả lời:  Đơn giản chỉ v́ nó sờ sờ trước mắt, không chịu được. Không dám bỏ đi đâu lâu một giờ một ngày, chỉ sợ ḿnh  vắng mặt trong lúc người ta nhảy tùm xuống sông, không có ai cứu th́ phải tội.

Cô  Xuân Hằng hỏi:   Làm có  được ǵ không?

Ông Chúc trả lời:     Cũng có!  Có người cám ơn, có người nhận làm bố nuôi, có người sau đó trở lại thăm cho quà. Nhưng không ít người mắng mỏ v́ hư đi quyết định  của họ.  Họ ăn vạ, bắt đền  mà rằng " tôi đă không c̣n tiền, không c̣n nhà để về, Ông cứu tôi sống  th́ ông phải nuôi tôi".

Cô  Xuân Hằng hỏi:    Rồi bác có nuôi không?

Ông Chúc trả lời:   Nuôi chứ.  Đận ấy, con bé tôi vớt lên, cứ khóc v́ ở với bà ngoại.  Bà bảo không đem tiền về, th́ đừng ăn,. Khuyên giải nó, lại thổi cơm cho nó ăn. Cả tuần liền.

 Cô  Xuân Hằng hỏi:  ( vừa hỏi vừa mân mê cuộn dây thừng đầu thuyền):

     Ông cứu người thế nào? 

Ông Chúc trả lời: (Ông Chúc giới thiệu luôn cuộn dây cô Xuân Hằng đang mân mê) :  

       Nó là cái  để cứu người đấy!. buộc  một đầu nó vào ḿnh, một đầu nó vào thuyền. Khi nhảy xuống vớt người xong,  th́ lại phăng theo dây bơi về. Không có dây mà lặn đại xuống. gặp người to khỏe, họ dẫy dụa vùng vẫy ghê lắm. Mắc vào họ  như mắc ṿi bạch tuộc, gỡ chưa xong th́ hết hơi, chết luôn dưới nước..

Cô  Xuân Hằng hỏi :Vớt được người rồi th́ làm ǵ?

Ông Chúc trả lời:    Th́ cứ đưa lên ghe, xem c̣n thở không.. Nếu đă chết, th́ gọi chính quyền xuống giải quyết. Nếu c̣n thở th́ cứu tỉnh. Rồi từ từ hỏi han, khuyên giải. Đa số các cô trẻ tuổi, khi nghe khuyên đều khóc. Tới phiên họ kể hoàn cảnh, hai vợ chồng tôi lại ruơm ruớm nước mắt..

Cô  Xuân Hằng hỏi :   Nguyên nhân tự tử là ǵ?

Ông Chúc trả lời: Con gái th́ bị Sở Khanh lừa gạt có chửa bỏ rơi. Đàn bà th́ bị nhà chồng hất hủi, bị chồng đánh đập. Đàn ông th́ thua cá độ, nợ nần, mất việc. Có cảcụ già  60, 70, con cháu lấy hết của, đuổi đi không nuôi. Mỗi người mỗi khổ. Từ lần đầu tiên, tôi thấy chiếc ghe chở mía bị đụng ch́m trên sông Sài g̣n, tôi bơi ra cứu được hai vợ chồng, hai đứa con, lúc đó tôi mới mười mấy tuổi tới nay năm mấy tuổi. tính tôi  vẫn cứ vậy, thấy chết thấy khổ  th́ kiểu ǵ cũng phải  cứu tới cùng.Nhưng nói thật, cứu lên gặp đàn ông bảnh bao, quần áo sang trọng, thế nào tôi cũng phải tát cho một cái vào mặt, khi tỉnh rồi mới khuyên ǵ th́ khuyên.

Cô  Xuân Hằng hỏi:  Khuyên thế nào?

Ông Chúc trả lời:    Ḿnh ít học, nghĩ sâu xa ǵ đâu. Thấy con kiến đang ḅ ở mép ghe, chỉ luôn vào con kiến bảo nó bé mọn thế c̣n tha thiết sống. Anh thế kia mà đ̣i chết, chẳng hèn hơn nó sao?. Có lẽ  cách khuyên của tôi cộng với  những trải nghiệm khủng khiếp khi tự tử cũng phần nào có tác dụng, nên nhiều năm ở đây chưa thấy có người nào được tôi vớt lên lại cố nhảy xuống thăm Hà Bá lần nữa.

Cô  Xuân Hằng hỏi :  Thế bác có ghi lại  ǵ không?

Ông Chúc trả lời:    Làm ǵ phải ghi!. Cứu người là chuyện phải quên đi, chứ đâu phải để nhớ để điều tra để ơn nghĩa, mà cần sổ sách. Mà giả như có muốn hỏi tên tuổi nhà cửa để ghi sổ cũng khó v́ thường khi được vớt lên người nào không mê man th́ cũng lạc thần, mất vía. Hầu hết không có giấy tờ tùy thân. Có hỏi, họ cũng giấu tung tích. Ḿnh hiểu họ e ngại chuyện  riêng, nên kể đến đâu nghe đến đấy, không nói th́ thôi, cũng ít hỏi cặn kẽ chi.

Cô  Xuân Hằng hỏi :  Theo bác, tại sao cầu B́nh Lợi lại có hun trong khi cầu Sàig̣n, cầu B́nh Triệu,cầu Đồng nai ít hơn- tại ḍng nước chảy xiết, tại cầu cao, nhiều đá ngầm bên dưới, hay tại âm hồn ám quẻ?.(Ông Chúc thú nhận cũng rất lấy làm lạ dù các lư do đưa ra đều bị ông lắc đầu bảo không phải.) Rồi cô tiếp tục hỏi:

       Giả dụ tôi đang đứng trên cầu B́nh Lợi, cạnh tôi cũng đứng vài người. Làm sao bác phân biệt ai đứng chơi, ai chán sống, sắp tùm?.

Ông Chúc trả lời: ( câu hỏi cắc cớ, nhưng ông Chúc không chút ngắc ngứ,)

        Nó là  thế này chị ạ. Người muốn quyên sinh, không ai vội vàng. Họ đứng lâu lắm, toàn  cắm đầu tư lự nh́n xuống nước. Rồi chắp tay vái tứ phương.

Cô  Xuân Hằng hỏi:    Vái à?

Ông Chúc trả lời:     Thật đấy, trước lúc cướp công cha mẹ, thiệt đời thông minh, có lẽ họ biết ḿnh họ có lỗi, nên phải vái xin tha lỗi. Tôi ngồi dưới ghe trông lên, đến đoạn họ trèo lên lan can cầu th́  giựt máy đươi tôm, lao ra luôn. Vừa kịp vớ lấy mái tóc đang bảy nổi ba ch́m kéo được ngay. Cũng có khi cái máy dở chứng, giật một phát không nổ, hai phát không nổ, th́ tôi buộc dây vào ḿnh cứ thế nhảy xuống bơi ra. Thường là cứu kịp. Cũng có khi không.  Nh́n trong nước thấy họ đảo  lia lịa, chân tay khua  loạn xạ, nhưng thoắt cái đă mất hút. Những trường họp đó tôi ḥ người trên bờ nhảy xuống phụ rà soát kỹ ḷng sông, dài lên cầu B́nh Triệu. Không thấy, trở về thuyền,  tôi không ngủ được đâu đớn  bứt rứt  suốt đêm.

Cô  Xuân Hằng hỏi:   Làm ba việc này quanh năm suốt tháng, vợ con  bác  có cằn nhằn hay ủng hộ?

Ông Chúc trả lời: (Ông Chúc cười hiền lành):

        Cằn nhằn quá đi chứ,v́ có ǵ đâu, nếu không muốn nói là ghê.

Cô  Xuân Hằng hỏi:   Sao lại thế?

Ông Chúc trả lời:     Th́ thỉnh thoảng, gặp xác chết ung rữa, trương phềnh, tôi cũng vớt lên, lo giúp tống táng. Bảo sao vợ con chẳng cằn nhằn. Nhưng tôi nghĩ, ḿnh nghèo hèn, chẳng giúp được chuyện to cho dân cho đời, cứu người, chôn người ở cầu B́nh Lợi là chuyện trong tầm tay  làm được th́ làm thôi. Ai biết mà có chuyện danh, chuyện lợi.

Cô  Xuân Hằng hỏi:  Tiếng lành đồn xa thu hút phóng viên báo chí, đài phát thanh tới chụp ảnh, viết bài cho báo, đài của họ.  Ông trở thành  người vua biết mặt, chúa biết tên. Ngơ hẻm dân khu phố có khách nghe chuyện mà  t́m thăm. Ngặt nỗi chiếc cầu chắp nối bằng  vô số mảnh ván đầu thừa đuôi thẹo cứ run run theo từng bước chân khách  ḍ dẫm.. Bác có tuổi rồi, đi dứng khó khăn. Chưa kể những khi cứu người đêm hôm mưa gió gấp gáp mà cầu lắc lư quá phải sửa đi, nguy hiểm lắm.

Ông Chúc trả lời:      Biết vậy, nhưng thôi, không có điều kiện mà chị.

 

Cô  Xuân Hằng hỏi:   Nói giả dụ, nếu Trời cho trúng số th́ bác có chịu sửa ghe sửa cầu không? (thuyền cũ mua lại của người, gắn thêm máy đuôi tôm,chạy tới chạy lui văi chài, nhưng nước sông ô nhiễm  chả mấy khi có cá, theo lời Ông Chúc)..

Ông Chúc trả lời:  (Ông Chúc cười nhẹ)

        Sống già từng này tuổi, thấy nhiều thứ phù phiếm, bọt bèo lắm rồi.  Chả dám mong những thứ cao xa, chỉ mong có sức khỏe để tiếp tục cứu người.

 Cuối bài tường thuật Cô Xuân Hằng kể rằng cô chợt nghĩ tới  h́nh ảnh ông ngư phủ  nghĩa hiệp trong truyện Lục Văn Tiên, và h́nh ảnh ngư phủ trong câu dân ca  Bắc Bộ:

Chồng chài vợ lưới con câu

Sông Ngô  bể Sở biết đâu bến bờ

Khi nên tay kiếm tay cờ

Không nên  ta cũng chẳng nhờ một ai

Ở thế kỷ 21, tuy sông Ngô bể Sở không c̣n, tay kiếm tay cờ đă gẫy, nhưng  c̣n kia tay cứu người tận tụy th́ có lẽ  bài hùng ca giữa đời thường , vẫn c̣n có chỗ ngân vang.

 
     

   Thà nghèo chứ không nhận phong b́ của người bệnh

                        (Tâm sự của 2  bác sỹ tại Việt Nam rút ra từ Internet)                                                                      

Tâm sự 1:

Hơn hai mươi năm cầm dao mổ, tôi không dùng một đồng tiền “cảm ơn” của bệnh nhân. Nếu họ đưa tiền chắc chắn tôi không lấy, cũng tránh mặt không cho gặp riêng.

Người ta gọi ông nội tôi là “cụ lang từ” bởi ông vừa bốc thuốc nam vừa làm “ông từ” trông coi đ́nh làng. Ngày nào ông cũng quét dọn, thắp nhang, đốt đèn, thay nước các ban thờ. Đ́nh đền làng tôi rộng lắm, thờ Phật, thờ Thánh, thờ Thành Hoàng rất uy nghi. Tôi vẫn nhớ h́nh ảnh ông ngồi bên cái chơng tre giữa sân đ́nh phơi đầy thảo dược dân dă. Người làng ai ốm đau ǵ cũng chạy đến ông kể lể bệnh t́nh. Có khi ông bảo “phải đi lên tỉnh”, có khi ông bốc mấy ấm để họ đem về. Ông nói “sống là gieo nhân, làm một việc tốt là gieo một cái nhân lành, thuốc này ông hái được th́ cho người ta làm phúc…”.

Nối tiếp truyền thống gia đ́nh, hiện nay tôi làm bác sỹ ở một bệnh viện TW lớn có mệnh danh “ḷ mổ” với công việc hàng ngày là mổ, mổ và mổ. Ngày nào cũng vậy, hơn hai mươi năm nay, không thể nhớ bao nhiêu bệnh nhân đă qua “tay dao” của tôi. Nhiều khi chỉ tranh thủ ra ăn vội hộp cơm đă nguội rồi lại vào mổ tiếp, có những hôm trực mấy ngày đêm. Vợ tôi kết luận “anh đúng là cái nghiệp bác sỹ chứ không phải là cái nghề…”.

Những năm đi làm thạc sỹ, tiến sỹ, sau tiến sỹ ở Pháp, Mỹ, Đức... họ mở rộng cửa cho tôi định cư và làm việc tại bệnh viện lớn với mức thu nhập dành cho chuyên gia nhưng tôi nhất quyết về nước. Cũng là kiếp người, sống ở đâu chẳng một cuộc đời mấy chục năm. Cũng là bác sỹ, làm việc ở đâu chẳng mổ xẻ. Tôi muốn sống và làm việc trên quê hương đất nước ḿnh, chữa bệnh cho dân ḿnh, chẳng lẽ chỉ v́ tiền mà phải sống xa xứ nơi ḿnh không thích?

Hơn hai mươi năm mặc áo blouse, toàn bộ thu nhập của tôi từ bảng lương bệnh viện, gồm lương và các phụ cấp theo quy định chung. Không có pḥng khám tư, cũng không tham gia “cổ phần” pḥng khám nào, ngoài công việc bệnh viện tôi đào tạo kinh nghiệm chuyên môn cho thế hệ bác sỹ trẻ và sinh viên các trường ĐH Y. Thời gian rảnh ít ỏi dành cả cho gia đ́nh, chúng tôi sống trong một căn hộ tập thể đi thang bộ kiểu cũ đă sửa sang chút ít, chưa đủ tiền chuyển đổi sang chung cư hiện đại. Hai vợ chồng đi lại bằng xe máy, con học trường công.

Hơn hai mươi năm cầm dao mổ, tôi không dùng một đồng tiền “cảm ơn” của bệnh nhân. Nếu họ đưa tiền chắc chắn tôi không lấy, cũng tránh mặt không cho gặp riêng. Đôi khi một đồng nghiệp tự dưng đưa tiền mà không thể từ chối, cũng chẳng biết của nhà nào. Số tiền đó tôi đem sang pḥng hậu phẫu cho những cụ già, trẻ em, bệnh nhân nghèo hoặc gửi bà xă làm từ thiện, công đức. Người ta vào viện đă khổ sở lắm rồi, có khi phải đi vay đi mượn rồi lại cóp nhặt từng đồng trả nợ. Trong lúc khốn khó lại phải bớt xén ăn tiêu của mẹ già, con thơ để bỏ vào phong b́ “cảm ơn” bác sỹ. Những đồng tiền khổ sở, cơ cực như vậy mà cũng có bác sỹ ngang nhiên bỏ túi. Cứu người đâu phải ban ơn mà là trách nhiệm tận tâm của người đă mang trong ḿnh cái Nghiệp Bác Sỹ. Chẳng lẽ cứu người ta xong là có quyền cầm những đồng tiền “cảm ơn” như thế sao? Tiền ấy mà có thể mua sắm ăn ngon, mặc đẹp, xe đẹp cho bác sỹ và những người thân hay sao?

Dân ḿnh chủ yếu công chức, nông dân, có mấy ai sung túc. Cho dù nhà bệnh nhân là đại gia giàu có tôi cũng không cầm tiền của họ, chắc chắn tiền ấy sẽ làm tôi mất đi những thứ quư giá hơn ở tương lai. Tôi tin số phận, nếu số giàu th́ hai bàn tay ḿnh sẽ làm nên một cách trong sạch, nếu số nghèo th́ dẫu có bao nhiêu cũng “của thiên trả địa” hết mà thôi. Tài sản tôi muốn tích lũy không phải là tiền của mà là những hạt giống phúc đức – những việc tốt hàng ngày – đồng tiền không trong sạch sẽ làm hao tổn tài sản quư báu đó. Tuy cuộc sống b́nh dân nhưng tôi luôn thấy vui vẻ, tự tin, hạnh phúc, ai giàu kệ họ.

Tôi không mặc cảm ngại ngùng khi bạn bè mua biệt thự, xe hơi, có người c̣n sắp mua cả máy bay. Nhưng tôi rửng rưng thấy ḿnh thua kém trước bác nông dân nghèo dùng tiền (được đền bù đất) xây trường học cho trẻ em, trước anh lái đ̣ xây cầu cho dân làng đi lại. Họ ít học hơn tôi, cuộc sống khổ hơn tôi, họ nghèo hơn tôi vậy mà tấm ḷng họ cao đẹp và nhân ái thế ! Ai làm việc thiện cũng đáng quư, nhưng nghèo như họ mà dám lấy toàn bộ tài sản ra làm việc thiện th́ mới là những người vô cùng giàu có mà tôi ngưỡng mộ.

Ông nội tôi ngày xưa nói “lương tháng là tiền lúc ở trên trần, lương thiện là tiền khi về cơi âm. Phúc đức là của cải vững bền từ đời này sang đời khác, nếu ḿnh chỉ hưởng mà không tích vào th́ đời sau cạn kiệt…”. Cuộc đời c̣n bao nhiêu thân phận éo le, bao nhiêu người cũng làm việc vất vả mà thu nhập thấp. Ḿnh được làm bác sỹ cứu chữa bệnh, có cái duyên gieo hạt nhân lành, tích thêm phúc đức cho con cháu – kiếp này như vậy là may mắn lắm rồi ! C̣n nếu đúng là tôi mang “nghiệp bác sỹ” th́ cũng cần phải “trả nghiệp” cho nhẹ gánh.

Gia đ́nh tôi không giàu nhưng vẫn đủ sống b́nh thường, điều quan trọng là chúng tôi b́nh an, hạnh phúc, các con ngoan và học giỏi. Mỗi lần về quê, bước vào đ́nh làng tôi thấy ḷng thanh thản nhẹ nhàng, lúc nào tôi cũng tự tin chắp tay nh́n vào gương mặt đức Phật hiền từ. Tôi không cần đến những cái phong b́ ai oán, không cần đến những khoản “hoa hồng” của các hăng thuốc bởi tiền nào cũng móc từ túi người bệnh mà ra đó thôi.

Gần đây người ta nói nhiều về thu nhập từ “kê đơn” của bác sỹ, theo tôi thấy th́ không phải bác sỹ nào cũng làm như vậy. Các nhà cung cấp thuốc nói “anh không kê đơn th́ những người khác vẫn làm, giá thuốc cũng vẫn thế rồi !”. Quan điểm của tôi là nếu cùng thành phần, công dụng tôi sẽ kê loại giá rẻ hơn cho bệnh nhân. Việc kê đơn theo gốc thuốc cũng không ổn v́ khi bệnh nhân cầm đơn ra hiệu thuốc vẫn bị tư vấn mua những loại đem lại lăi suất cao cho họ. Mong sao thuốc cũng cạnh tranh nhau về giá cả giống hàng tiêu dùng để dân đỡ khổ và một bộ phận bác sỹ không có cơ hội làm việc bất lương.

 

Tâm sự 2:

 Là một bác sĩ trẻ, tôi có thể kiếm được 1 tỷ đồng trong 2 năm

> Cũng là bác sĩ, tôi không biết sẽ 'giữ ḿnh' được bao lâu nữa?

 

Lời nhắn nhủ :

Trên đây là những trải ḷng của tôi sau khi đọc tâm sự của hai bác sỹ trẻ đăng trong chuyên mục này. Có thể bây giờ các em thấy nghề bác sỹ quá vất vả mà thu nhập chẳng đáng là bao nhưng đó là nghề chúng ta đă chọn. Nếu các em thi vào trường Y với suy nghĩ “làm bác sỹ sẽ giàu” th́ tôi khuyên nên bỏ sớm. C̣n nếu các em thực sự yêu nghề, muốn làm bác sỹ để cứu người th́ hăy chấp nhận một cuộc sống giản dị về vật chất, đừng bao giờ cầm những đồng tiền kèm theo nghiệp chướng kẻo tổn hại về sau. Bác sỹ giỏi, tŕnh độ chuyên sâu, là tay mổ chính cũng có thu nhập cao từ bệnh viện.

Tôi cũng mong sớm có những quy chế tốt hơn cho bác sỹ trẻ mới ra trường nói riêng và ngành Y nói chung. Tuy nhiên điều ước lớn nhất của tôi là chính sách phúc lợi của nhà nước cho người già, trẻ em, người nghèo… Giá như người bệnh chỉ chết v́ Y học bó tay chứ không phải chết v́ thiếu tiền chữa bệnh hay thiếu tiền mua thuốc.

    Từ Thanh       

 
 

 

 

 Một Tấm Ḷng Vàng

                    chuyện  của một Việt  Kiều kể      

 
 

      

Con ơi !! Mẹ xin lỗi ..

Một cô gái bất hạnh nào đó đă lặng lẽ bỏ con c̣n đỏ hỏn lại bệnh viện. Một người đàn ông nh́n xác bé thơ vô tội nằm lạnh lẽo đă xin bệnh viện được giải quyết hậu sự cho bé.

Từ bé thơ đáng thương đầu tiên, thứ hai, thứ ba...năm 2004. Đến nay, đă có hơn 9.000 sinh linh dù đă tượng h́nh hay chưa đủ h́nh hài được anh và những người bạn thiện nguyện đưa về từ những bệnh viện, nhà hộ sinh và cả những thùng rác...

Những sinh linh bé nhỏ được chôn cất ở băi đất trên triền núi Ḥn Thơm (Vĩnh Ngọc, Nha Trang). Những ngày đầu, v́ sợ mọi người dị nghị, anh chỉ âm thầm làm một ḿnh. Nhưng rồi, mỗi lần đi xin xác thai nhi, các bệnh viện hiểu tấm ḷng của anh. Dần dần, nhiều người biết đă cùng anh thiện nguyện làm công việc này.

Trong hẻm nhỏ trên đường Phương Sài (thành phố Nha Trang). Chúng tôi t́m đến số nhà 56/3, nơi đây hiện đang nuôi dưỡng gần 20 đứa trẻ. Sau một thời gian cùng nhóm thiện nguyện thực hiện việc chôn cất những sinh linh bị bỏ rơi, anh Tống Phước Phúc trăn trở “Nếu ḿnh chỉ làm như thế này măi th́ không làm được ǵ cứu vớt sự sống cho các bé nữa”.

Rồi tận sâu thẳm đáy ḷng ḿnh, anh Phúc đă đến những bệnh viện, nhà hộ sinh tâm sự nhẹ nhàng với những bà mẹ đang suy sụp tinh thần, đứng trước ư định cắt bỏ phần ruột thịt máu mủ. Anh nói với những cô gái: “Em đừng hủy thai, tội nghiệp lắm! Anh biết không người mẹ nào lại không đau khổ khi bỏ rơi con ḿnh cả. Nếu em khó khăn, anh sẽ giúp em nuôi bé cho đến khi nào em đủ điều kiện nhận lại. Anh hứa là anh chỉ nhận các cháu chứ không cho ai khác”.

Bằng tấm ḷng của ḿnh, anh Phúc đă đưa về nhà hàng trăm bé. Một căn nhà không đủ chỗ ở cho các em, anh c̣n liên hệ với một nhà thờ dưới Cam Ranh để chăm sóc cho gần 50 bé nữa.

Những bé thơ được anh đưa về nhà nuôi dưỡng đều lấy họ anh. Con trai th́ tên là Vinh, con gái tên là Tâm. Chỉ khác nhau tên lót. Anh nói tên lót là tên quê của mẹ các bé. Anh đặt như thế để khi mẹ các bé quay lại t́m cho đúng con ḿnh và cũng để tên các bé gắn với quê hương mẹ.

Từ năm 2004, đă có hàng chục cô gái lầm lỡ t́m đến nhà anh tá túc. Cũng đă có trên 50 em nhỏ đă được mẹ quay lại đón về. Anh nói, cái cảm giác nh́n mẹ con đoàn tụ, ḿnh cứ “sướng sướng” và hạnh phúc thế nào ấy, khó diễn tả lắm.

Điều làm anh Phúc vui nhất là sau 6 năm với công việc thiện nguyện của ḿnh cùng những người bạn là số trẻ bị bỏ rơi, t́nh trạng phá thai đă giảm nhiều. “Năm 2004, khi mới làm việc này, mỗi ngày nghĩa trang phải có thêm 30 bé an nghỉ. Bây giờ, ngày có ngày không. Mừng lắm chứ!”.

Đă không ít lần, anh Phúc dẫn những cô gái có ư định hủy thai đến nghĩa trang, để những người mẹ lầm lỡ thấy cái lạnh lẽo nơi đây mà dũng cảm hơn. Rồi anh dẫn về nhà ḿnh, nơi có những bé thơ xinh xắn đang nô đùa, vô tư tươi cười để họ thấy cần phải có trách nhiệm với các bé thơ chuẩn bị chào đời.

Khi nh́n những khuôn mặt bé thơ xinh xắn, hồn nhiên, ít ai nghĩ các bé đă từng phải nằm giữa ranh giới sự sống và cái chết từ khi chưa chào đời. Có thời khắc, mẹ các bé tưởng chừng đă cắt đứt khúc ruột máu mủ của ḿnh. Để rồi sâu nặng trong tâm khảm một nỗi ân hận: “Con ơi! Mẹ xin lỗi”.

Trên đường về, chợt tôi nhớ đến những ḍng chữ trên bức tường nhà anh Phúc:

“Con nằm đây hai tay chắp khẩn cầu

Xin thượng đế cho mẹ cha can đảm

Cha thương con, chớ giết con mẹ nhé...”.

      Người kể : Vân