Nho Giáo   ( Khổng Giáo)

   

 

 Quan niệm Nho Giáo

              về số phận con người

Tác giả : Phạm xuân Khuyến

 

Đạo Nho được gói ghém trong Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tứ Thư là bốn sách Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.  C̣n Ngũ Kinh là Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu.

Đạo Nho cũng gọi là Khổng Giáo  v́ các sách nêu trên  do chính  Đức Khổng Tử  viết ra  hoặc các môn đệ của Ngài viết về những lời giảng dạy  của Ngài.

   Đạo Nho  quan niệm về Trời :

 Trời là Đấng Hóa Công. Từ Trời mà muôn vật   được tạo thành. Sách Lễ Kư viết: Muôn vật gốc ở Trời, con người  gốc ở tổ tiên (Vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản  hồ tổ) . Trong muôn vật, th́ con người  được Trời ưu đăi nhất v́ cho con người  thông phần Thiên Tính của Ngài. Trời cho con người  linh hồn bất tử.   Kinh Thư chép rằng  chỉ có con  người  là linh thiêng hơn vạn vật ( Duy nhân  vạn vật  chí linh).

  Đạo Nho  quan niệm về con người

Con người có linh hồn thiêng liêng  nghĩa là thể xác con người  có thể chết  nhưng linh  hồn con người không chết.  Sách Lễ Kư  viết về con người: Chết rồi hài cốt  chôn xuống đất, dần dần tan đi, c̣n cái khí tinh anh th́ lên khoảng không gian sáng rơ rực rỡ (Tử tất qui thổ, cốt nhục  tệ ư  hạ, âm vi dă thổ  kỷ khí phát dương ư thượng  vi chiêu minh). Chẳng  những có linh hồn thiêng liêng mà  con người  lại có tính bản thiện  v́ được thông phần Thiên tính. Mạnh Tử chép rằng  con người vốn có tính thiện nhưng hoàn cảnh xă hội đă làm hỏng đi cần phải giáo dục để nuôi dưỡng  lại ḷng thiện,như phải tập dưỡng tính, tồn tâm, tŕ chí và dưỡng khí. Đại trượng phu là phẩm cách của người quân tử  có nhân nghĩa lễ trí và tín.  Mạnh Tữ viế  rằng 'Thấu hiểu ḷng ḿnh  sẽ  biết được  bản tính ḿnh; biết được bản tính ḿnh th́ cũng biết được  Trời' ( tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dă. Tri kỳ tính, tri Thiên hỹ).  Ư dân là ư Trời . Mạnh Tử viết: ' Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh'.

Statue of Confucius on Chongming Island in Shanghai

   Đạo Nho quan niệm về Thiên Nhân Tương Dữ

Trời luôn luôn ở bên cạnh  con người. Kinh Thi viết rằng: 'đừng rằng tăm tối ai người thấy ta ' Tuy nhiên Kinh Thư viết rằng Trời không thân ai chỉ thân kẻ biết  kính sợ Ngài ( Duy Thiên vô thân, khắc thân  duy thân). Trời quí trọng  con người hoặc điều ǵ dân chúng ước ao th́ Trời cũng chiều theo ( Dân chi sở dục, Thiên  tất ṭng  chi).

Theo Đức Khổng Tử  th́  Ư Trời là  muốn đem lại an hoà hạnh phúc  cho nhân loại.  Đức Khổng Tử  muốn nói rằng Trời ưa kẻ biết kính sợ  Ngài,  kẻ đó chính  là kẻ thuận theo Ư  Ngài.   Ư Trời th́  phải được hiểu  là  con người phải lấy nhân  nghĩa lễ trí tín mà cư xử v ới nhau để  tạo hạnh phúc cho xă hội loài người. Trời  ban thưởng những ai thuận theo Ư Trời, Trời phạt những ai  hành động trái với  Ư Trời.   Sách Minh Tâm Bảo Giám sưu tập các  câu cách ngôn của Đức Khổng Tử và các thánh hiền liên hệ  đến sự Trời thưởng phạt. Chẳng hạn câu của  Đức Khổng Tử:  'Ai làm  điều lành  th́ Trời báo phúc cho, ai làm  điều chẳng lành th́ Trời lấy vạ  mà báo cho' ( Vi  thiện giả , Thiên  báo chi dĩ phúc , vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa). Kẻ làm  điều chẳng lành Nho giáo gọi là kẻ tiểu nhân.  Sách Trung Dung  nói  kẻ tiểu nhân th́ cầu hư danh . C̣n sách Luận ngữ  chép rằng kẻ tiểu nhân th́ mê lợi và dục .

   Đạo Nho quan niệm về bổn  phận của con người:

Niềm tín ngưỡng ở Trời của người đạo Nho rất sâu xa, nên họ phải phụng thờ Trời và bất cứ  công việc ǵ họ  cũng phải làm theo Thiên Mệnh, Thiên Đạo và giữ trọn đạo Hiếu đối với Tổ Tiên  v́ là Ư Trời.

 -Thờ Trời và  thi hành Ư Trời

- Thờ Trời

Sách luận Ngữ chép: Đức Khổng Tử cầu nguyện  suốt đời ( Khâu chi đảo cửu hỹ). Cầu nguyện  theo tinh thần  Đức Khổng Tử  là chẳng những tế tự, cầu xin ơn huệ, mà nhất là cố gắng, thuận theo Ư Trời (Thiên Mệnh )'. Ư Trời  là  thực hành  những điều nhân nghĩa  lễ trí tín. Nếu ta ăn ở  bất nhân thất đức th́ việc cầu đảo cũng là vô ích. Ngài nói trong sách Luận Ngữ rằng: Phạm tội với trời, th́ c̣n cầu nguyện vào đâu được ( hoạch tội ư Thiên, vô dĩ sở đảo giă).,

- Thi hành Ư Trời

 Ư Trời Đức Khổng Tử gọi là Thiên Mệnh.Thiên mệnh nằm gọn trong Đức Nhân : Yêu  Trời, yêu tha nhân.

 Mệnh đây có 2  ư nghĩa: số mệnh và  sứ mệnh.

Số mệnh :

Số mệnh  tức là hoàn cảnh , thời thế, cảnh ngộ, tai nạn, bao gồm cả những hin tượng  thiên nhiên như băo lụt, động đất, hạn hán,hay ǵa nua, bệnh tật và cuối cùng  là chết. Những cảnh ngộ đó , có khi thuận lợi, có khi là những nghịch cảnh  xẩy đến ngoài ư muốn, ngoài khả năng ước đoán, định đoạt, lựa chọn của mỗi người. Người tri mệnh là người coi những nghịch cảnh chẳng qua là những cơ hội, những  thử thách  mà Trời muốn  dùng để  tôi luyện ư chí và ḷng dũng cảm. Như vậy, người tri mệnh  là người có ư chí tự do mạnh mẽ. Nếu thiếu ư chí  tự do, th́ không thể nào tri mệnh được. Sách Trung dung diễn tả  người tri mệnh : trên không oán Trời  dưới không trách người, cứ b́nh dị  mà đợi mệnh ( Thượng bất  oán Thiên, hạ bất vưu nhân, cứ dị sĩ mệnh). Luận Ngữ chép rằng:  'Không biết mệnh Trời th́ không phải là người quân tử'  ( Bất tri mệnh  vô dĩ vi quân tử  giả)

Sứ Mệnh

Sứ Mệnh tức là công tác thực thi điều tốt cho tha nhân, đem lại  an hoà  hạnh phúc  cho tha nhân cho xă hội v́ Trời  Đấng Toàn Thiện  chỉ muốn sự  an ḥa  và hạnh phúc cho mọi người.  Nhân nghĩa  lễ trí tín Sứ Mệnh của con người.  Đức Nhân  được thể hiện  đối với cha mẹ  chính là chữ Hiếu Thảo.   Đức Nhân đối với mọi người  là từ bi hỷ xả.

 Nói tóm lại,  Khổng Giáo chủ trương  một nền luân lư xă hội phải tuân theo tôn chỉ Nhân  Nghĩa lễ Trí Tín.  Nếu muốn được hạnh phúc an b́nh th́ xă hội phải có kỷ cương. Trong xă hội th́ Khổng Giáo chủ trương quan điểm mà Mạnh Tử viết: Dân vi quí, xă tắc thứ chi, quân vi khinh.

   Đạo Nho quan niệm vềTu Thân

  Muốn  hiểu Trời,  Ư Trời và thực thi Thiên Mệnh cho  đúng  th́ phải tu thân .Tu Thân  là t́m ra Trời (Thượng Đế) trong ḷng ḿnh, trong ḷng người khác, trong ḷng xă hội và cảm nghiệm được mệnh Trời.

 Có thể nói chắc chắn rằng nếu đă t́m ra được Trời th́ c̣n sợ hăi chi.  Trời sẽ phù tŕ những ai bền tâm, thiện chí, tự lực  tự cường, không nhu nhược, chịu bó tay đợi số mệnh. Kinh dịch viết rằng hành động  của Trời rất mạnh, người quân tử  phải theo mà tự cường ( thiên nhiên hành kiện , quân tử dĩ tự cường bất tức).  Trời sẽ giúp đỡ ai trong  những hoàn cảnh éo le. Nếu con người chưa t́m ra được Trời ( Thượng Đế) ngự trị trong  tâm khảm ḿnh, làm chủ chốt cho mọi tâm tư hành vi trong ngoài ḿnh th́ con người ấy vẫn chưa thể nào b́nh an và hạnh phúc được.

Để tu thân cho kết quả, th́ mỗi người  phải trí nhân dũng. Sách Trung Dung viết rằng:  Trí để biết rơ các sự lư, Nhân  để hiểu điều lành,  Dũng  có cái khí cường kiện mà thực hành. Đ ạo Nho  đưa ra  hai  phương pháp  Giáo Huấn  để tăng cường  sự tu thân.

1/-Giáo huấn của Chu Hy :

Lư Thái Cực  (Trời, Thượng Đế) ở trong mỗi người, nhưng không  được phát  hiện sáng láng, v́ phần khí chất của con người che dấu mất, chẳng khác nào viên ngọc quí bị đất bùn làm dơ bẩn. Bởi vậy nhiệm vụ tu thân  là mài dũa cho viên ngọc  được sáng chói.     Giáo huấn của Chu Hy  lấy  phương châm  rút ra từ sách Đại Học: Trí Tri Cách Vật  và Thành Kính.

Trí Tri Cách Vật là t́m hiểu sự vật. Càng học hành, nghiên cứu, đọc sách,  thí nghiệm, điều tra các sự vật th́ ta càng hy vọng sẽ khám phá ra cái Lư Thái Cực , cái Chân Lư tiềm ẩn  trong ta. Hiểu được cái Lư của vạn vật  là ta hiểu được  bản tính của ta nữa.

 Thành kính là kính cẩn  nghiêm trang, thận trọng lo lắng, để hết tâm trí chuyên chú vào việc truy t́m Lư của sự vật tức là cố gắng  phát hiện  cái Lư  Thái Cực như hạt châu báu vẫn ẩn dấu trong thâm tâm ta. Thành kính được thể   hiện bằng phương thức tĩnh tọa; ngồi yên, kính cẩn giữ tâm sáng suốt để đối phó với  các sự vật cho hợp lư.  Nho Giáo hoán  tỉnh cái  tâm  để khiến nó  soi sáng  đến cái Lư .

2/- Giáo huấn của  Vương Dương  Minh ((Wang yang ming )        

 đặt cơ sở trên câu Đại Học chi đạo, tại minh minh đức , tại thân dân, tại chỉ ư chí  thiện.  Vương Dương  Minh  giải thích câu trên  như sau:

  Vế câu tại minh minh đức có nghĩa :  Đức Sáng  chính là Lương Tri, Lương Tâm trong sáng, nguyên tuyền của bản thể nhân loại. Đức Sáng khiến ta  phân biệt  được thiện ác, thiện th́ theo, ác th́ tránh xa. Do đó, Đức Sáng  có thể ví như một viên ngọc  nhưng đă bị bùn  đất  bám vào. Bùn đất đây là các mối t́nh  vị kỷ , tư dục  đă che khuất  Lương Tri, Lương Tâm.    Vậy công phu  tu luyện là khử trừ  các t́nh dục, tham lam, vị kỷ để cho Lương Tâm  sáng chói như thủa ban sơ.

Vế câu tại thân dân  có nghĩa:    Yêu tha nhân  là một cách  để đạt tới sự phối kết với Trời. Nhờ vào  đức yêu người mà Lương Tri, Lương Tâm được sáng chói.

Vế câu tại chỉ ư chí  thiện có nghĩa:  Sự thiện tuyệt hảo chính là ḷng nhân  ái yêu  người bao la, không bị một chút vẩn đục nào của t́nh tư dục, của óc bon chen hẹp ḥi pha trộn vào. Đó là mẫu mực cao thượng nhất  mà mọi người phải tuân theo để trở nên bậc thiện toàn. Sự thiện tuyệt hảo chính là Lương Tâm.

Từ cơ sở trên câu Đại Học chi đạo, tại minh minh đức , tại thân dân, tại chỉ ư chí  thiện, Vương Dương  Minh đưa ra phương Châm giáo dục như sau:

 Trí Tri:

Đối với Vương Dương Minh th́ Trí Tri là sự hiểu biết rằng  Lương Tri ( Lương tâm) là cái gốc của hành động. Cho nên, sự  tu dưỡng chỉ nhằm theo lương tâm mà hành động, ngoài ra không c̣n việc ǵ khác.

Cách Vật :

 Cách có nghĩa là chính. Vật là việc. Do đó, cách  vật là  chỉnh đốn công việc cho chính đáng, cho tốt. lương tâm (lương tri) bao giờ cũng tốt, lại biết phân biệt điều thiện điều ác v́ nó là bản thể của con người. Tất cả những hoạt động của con người do lương tâm phát hiện ra gọi là ư hay ư niệm. Đối tượng của Ư  là vật  tức công việc mà ta  có ư thực hành. Ư niệm và công việc  th́ có thể tốt hoặc xấu. Bởi vậy, khi ư niệm phát sinh ra  điều ǵ mà lương tri (lương tâm) đă cho biết là  điều ác rồi, nếu ta không cấp tốc và thành thật  loại bỏ ngay điều đó, lại c̣n noi theo mà thực hiện việc đó, th́ kết quả là ta đă làm cho lương tâm (lương tri) ra mờ ám vậy.. Khi ư niệm  phát sinh ra  điều ǵ mà lương tâm đă biết là điều thiện, nếu không thực hành ngay mà lại bỏ đi, thế là  đă lầm lẫn lộn xộnvà kết quả  là lương tâm bị sai lạc.

Thành Ư.

Ư niệm hay ư chí phải thành thực. Không được  để cho tư lợi nhỏ nhen làm mờ ám lương tâm.

 

 
    

      Tứ Thư và Ngũ Kinh

     Tứ thư và Ngũ kinh   có thể nói  là  những tác phẩm cơ bản tŕnh bày học thuyết   Nho Giáo

  ( Khổng Giáo)

 

Tứ thư

   Tứ Thư  gồm  4 cuốn : Đại Học,Trung Dung,Luận Ngữ Mạnh Tữ

 

Đại Học

            Đại Học  dạy cái đạo của người Quân Tử.  Sách  có 2 phần: phần Kinh  và phần Truyện. Phần Kinh chép lời Đức KhổngTử,  c̣n phần Truyện gồm 10 chương ghi lời giảng của ông Tăng Tử môn đệ Đức Khổng Tử.

 

Trung Dung là tâm pháp của Đức Khổng Tử do học tṛ  ngài truyền lại.Thầy Tử Tư cháu  của ngài chép thành sách.  Trung Dung nghĩa là  dùng đạo trung làm đạo thường. Trung nghĩa là  giữa không lệch bên nào. Muốn theo đạo phải có đức trí nhân và dũng.Trí để biết rơ các sự lư, Nhân  để hiểu điều lành,  Dũng  có cái khí cường kiện mà thực hành

File:Mencius.jpg

Luận Ngữ:

Luận Ngữ là sách dạy đạo làm người quân tử  thực tiễn và mô tả tính t́nh, cử chỉ đức độ  của Đức Khổng Tử như phác họa mẫu mực  cho người đời sau noi theo. Sách ghi lời của Đức Khỗng Tử khuyên học tṛ, chép những chuyện  nói với người đương thời về luân lư, triết lư, chính trị, học thuật .Sách này các môn đệ viết ra thành sách sau khi sưu tập.

Mạnh Tữ

Mạnh Tữ là  sách Mạnh Tử chép . Chủ Trương của Mạnh Tử  là Nhân Chi sơ tính bản thiện .                                                                          H́nh Mạnh Tử ..>

 

Ngũ Kinh

Ngũ Kinh gồm 5 cuốn : Thi

1-Thi

Khổng Tử sưu tập: ca dao và nhạc   có 4 phần: quốc phong, tiểu nhă, đại nhă  và tụng nghĩa

2-Thư

Kinh Thư chép những diễn mô huấn,cáo thệ mệnh  của  Nghiêu Thuấn   đến đời Đông Chu 

3-Lễ Kư:

Lễ Kư  chép các lễ ngàn đời trong gia đ́nh, hương đảng và triều đ́nh

4- Dịch.

 Dịch  là sách  tướng số chỉ việc  bối toán và sách lư học .  Dịch sách tướng số  chỉ việc bói toán và sách lư học  cốt giải thích  lẽ biến hóa của trời đất và sự hành động của muôn vật trong càn khôn vuĩ trụ

5-Xuân Thu.

 Xuân   Thu  là sử kư nước Lỗ   Đức Khổng Tử san định theo lối biên niên

 

 
   

          Đạo Đức  Học  theo  nhăn quan Nho Giáo

              

Phải hành xử  cho tốt đẹp mối tương quan giữa Trời và Người, nói cách khác  phải chấp hành thánh Ư Trời. Nói đến Ư Trời tức là nói đến Thiên MệnhNho Giáo tin vào Thiên Mệnh nơi đời sống mỗi người.  Theo truyền thống Nho Giáo, th́ mỗi người phải chấp hành  thánh Ư Trời an bài cho ḿnh  trong cuộc sống ở trần gian  này. Do đó  Mệnh đây có hai ư : số mệnh và  sứ mệnh .

Số mệnh  tức là hoàn cảnh, thời thế, cảnh ngộ, tai nạn, bao gồm  cả những hiện tượng  thiên nhiên như băo lụt, động đất, hạn hán, hay già nua, bệnh tật, chết.  Những cảnh ngộ đó, có khi thuận lợi, có khi là những nghịch cảnh, xẩy đến ngoài ư muốn, ngoài khả năng ước đoán, định đoạt, lựa chọn của mỗi người.  Người tri mệnh  coi những  cảnh  chẳng qua là  những cơ hội, những thử thách  mà Trời muốn  dùng  để tôi luyện  ư chí  và ḷng dũng cảm . Như vậy,  người tri mệnh là người có ư chí  tự do mạnh mẻ . Nếu thiếu ư chí , tự do, th́ không thể nào tri mệnh  được. Sách Trung Dung  diễn tả người tri mệnh: trên  không oán Trời, dưới không trách người, c ứ  b nh d ị  mà đợi mệnh mà thi hành  ( Thượng bất oán  Thiên , hạ  bất vưu nhân , cứ dị dĩ  sĩ mệnh )

C̣n  Sứ Mệnh  tức là thực thi điều tốt  cho tha nhân  v́ Trời là Đấng  Toàn Thiện  chỉ muốn  sự an ḥa  và hạnh phúc cho mọi người.  Theo Nho  Giáo, th́ Ngũ thường  là sứ mệnh căn bản  mỗi người phải thực thi cho kỳ được

Ngũ thường:

 N là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

 

Nhân:

 Chữ nhân là nhân đứng bằng chữ nhị, nhân là người, nhị là hai. Làm người phải giữ cho đặng trọn hai phần, một là đối với Trời Đất, th́ phải noi theo phép công-b́nh thiêng-liêng của Tạo-hóa, thuận tùng Thiên-lư. Hai là đối với người, vật, th́ phải giữ ḷng đạo-đức, thương người mến vật, trợ cấp pḥ nguy mới trọn ḷng nhân .

Những bậc nho gia  thường chưng câu: Nhân là trắc ẩn chi tâm, ái vật chi lư, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức.  Lấy ḷng nhân phóng xá cho loài vật, đặng phần sống sanh hóa như loài người, mới có ḷng từ-bi bác-ái gọi là nhân

Nói tóm lại: Nhân  là :Ḷng yêu thương đối với muôn loài vạn vật

Nho  Giáo  chủ trương   thuyết Nhân trị:

Nhân là t́nh người, nhân trị là cai trị bằng t́nh người, là yêu người và coi người như bản thân ḿnh. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân th́ Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều ǵ ḿnh không muốn th́ đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lư, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân th́ lễ mà làm ǵ? Người không có nhân th́ nhạc mà làm ǵ?" (sách Luận ngữ). tính hài ḥa là việc đề cao chữ "Nhân" và nguyên lư "Nhân trị".

 

Nghĩa

 (Chữ nghĩa gồm 2 chữ  ghép lại: toànngă, chữ toàn là trọn, chữ ngă là ta. Chữ nghĩatoàn ngă hiệp lại thành chữ nghĩa).    Chữ nghĩa  có  ư nói: làm người giữ trọn cùng ta th́ nên nghĩa, c̣n chẳng trọn cùng ta là thất nghĩa. Nghĩa là đầu mối phát sinh  sự biết hổ thẹn, biết chê ghét điều xấu khi hành xử v ới người .Cư xử với mọi người công b́nh theo lẽ phải. Những bậc nho gia  thường chưng câu: "các hữu kỳ chủ, cả thảy mọi vật đều có chủ, cấm chẳng đặng gian tham ham muốn của người, mà làm cho thất nghĩa." Muốn thật hành chữ nghĩa, th́ những bậc nho gia c ũng thường nói câu: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn". Những việc ǵ ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu th́ ta không nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa. Chữ nghĩa bao hàm rất lớn:  nghĩa cha con, nghĩa thầy tṛ, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, th́ mới đủ tư-cách làm người cao trọng.
Làm việc nghĩa th́ được bạn, làm điều trái lẽ thường t́nh th́ mất bạn.

 

Lễ:

 Tôn trọng, ḥa nhă trong khi cư xử với mọi người. Lễ  là tâm t́nh  nhún nhường  , nhu ḿ, đơn giản. Lễ là thiết yếu giữ chừng mực cho mọi sự hành-vi của con người.     Con người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí Người linh hơn muôn vật, chỉ nhờ biết giữ lễ mà đặng phần tôn quí hơn. nhân quần xă-hội, thảy đều dùng lễ mà làm cho đời được tận thiện tận mỹ. C̣n thất lễ tội lỗi. làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê bai khinh bỉ nhục-nhă.

 

Trí:

Thông biết lư lẽ, phân biệt thiện ác, Trí là sự  khôn ngoan  biết phân biệt phải trái.TRÍ là  mọi sự đều rơ biết, cư xử việc ǵ cũng được phân-minh, chẳng khi nào phạm vào luật-pháp.  TRÍ là tồn tâm dưỡng tánh, chẳng nên dùng tửu nhục ẩm thực quá độ, rối loạn trí năo tâm thần, hoại hư tạng-phủ biến ra người mất trí.
Chữ
Trí là tri trên bạch dưới, chữ tri là biết, chữ bạch là trắng, làm người phải biết giữ ḷng thanh bạch, chẳng cho nhiễm vào một điểm nhơ ố vạy tà, mới gọi là hạng người trí-thức....

 

Tín:

Giữ đúng lời, đáng tin cậy. thỉ chung như nhứt trước sau như một, không thay ḷng đổi dạ, dầu hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là người chơn-chất biết thủ tín.
Làm người mọi điều thốt ra, phải giữ sự chơn thật th́ mới đủ ḷng tín-nhiệm của quần chúng, nếu việc không mà nói có, việc có lại nói không, th́ chẳng c̣n ai tín-dụng. Người ở đời mà thất tín th́ chẳng làm ǵ nên danh phận. Nên có câu: "Nhơn vô tín như xa vô luân". Người mà không thành tín th́ cũng như chiếc xe không có bánh, chẳng hề cử-động được nữa.

Khi thực thi đạo đức theo quan điểm Nho Giáo, người ta thường  thực thi  như sau:
a/- 
Chữ nhân và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có hai câu dạy rằng:
           Làm người nhơn-nghĩa xử xong,
           Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
           Làm người nhơn-nghĩa giữ tṛn,
           Muôn năm bóng khuất tiếng c̣n bay xa.

b/-  Chữ  Lễ và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau:   đối đăi bề trên kính lễ làm đầu , kẻ dưới dùng nghĩa mà thăm

c/-   Cái ḷng thương xót người ta đều có, cái ḷng thẹn ḷng ghét người ta đều có, cái ḷng cung kính  người ta đều có, cái ḷng  phải trái người ta đều có. Ḷng thương xót  là ḷng Nhân, ḷng thẹn ḷng ghét  là Nghĩa , ḷng cung kính  là Lễ, ḷng phải trái là Trí.  Các  điều Nhân Nghĩa  Lễ Trí đều không phải từ bề ngoài nung đúc ta, nhưng  hẳn đă có  rồi mà ḿnh chẳng nghĩ tới. Cho nên  nói rằng : Nhân Nghĩa Lễ Trí hễ cầu  th́ được , bỏ th́ mất, được hay mất sẽ có kết quả  về  công việc  làm ra  là Thiện  hay bất thiện,

 
 

 

    Confucianism

Confucianism  is based on a set of moral rules suggested by Confucius (551 BCE) and his disciples. Some of these rules  are succinctly summarized by this simple sentence: tam cuong, ngu thuong, tam tong, tu duc.The first two precepts are aimed at both sexes while the last two are reserved for women

1-Tam Cuong (the Three Bonds) deals with the king-subject, parents-children, and husband-wife relationships.

The subject is supposed to be loyal to the king who in return has to treat him fairly. Parents would raise children who in return owe them a long-lasting debt and would care for them in their old age.  The husband will be good to his wife who will remain loyal to him. Within this group, the Chinese have added the  elder-younger sibling and friend-to friend relationships.  The king-subject relationship supersedes all other types of relationship.

2-   Ngu Thuong  ( the Five Precepts include nhan,nghia, le, tri, tin.  A person is deemed good if he practices all of them.

Nhan ( a yin concept) invokes compassion, charity, and love for a  fellow human being.  “Love your peers (Analect 1,5) and “ love the multitude broadly (Analect 1,6) are equivalent to the Christian rule:  “Love thy neighbor”.  Do not impose on others what you yourself do not want (Analect 15,24).  It is pretty close to the Golden Rule “ What you do not wish for yourself, do not do to others”. Nhan provides a counterbalance to nghia ( a yang concept) for  without  nhan, nghia could seem to be  too strict or rough. 

Nghia ( righteousness) implies the duty to fulfill an obligation to Family or Country. Duty alone could be moral or amoral.  Therefore, nghia goes  hand and hand with nhan and one would talk about nhan nghia, a more subdued and balanced form of duty rather than the rigid or righteous kind of duty..

Another frequently used compound name is chinh nghia, which has a much deeper ideological and psychological meaning than in American equivalent “just cause”.  It involves on moral debt, hieu (filial piety) and nghia ( righteousness). It conveys the idea of the ‘ true,legitimate claim of society upon one’s devotion and one’s behavior”.  It is not determined by individual conviction, but by a  socially assessed judgement of what is right or wrong.

A government that  has chinh nghia- legitimized heavenly approval- is said to have earned the Thien Menh ( Mandate of Heaven)

 Le ( propriety) equates to observing the proper behavior or protocol within the society.

Tri ( wisdom or learning) implies  the wisdom or intelligent ability to distinguish right from wrong

Tin (sincerity, truthfulness) implies the  reliability of a person.

3-   Tam tong ( Three submissions)

The lives of women revolved around the men, they cared for: father, husband, and son. They must obey their fathers when young, follow their husbands when married, and then accept the guidance of their eldest sons when widowed.  Their lives would not be complete unless they fulfill all these duties, which kept them prisoners within the Confucian world.

4-Tu Duc (Four Virtues): a woman should be able to work, i.e. master cooking and sewing ( cong); she must have a good appearance (dung), know how to discourse( ngon), and  be of good character (hanh honest and loyal).

 

    The Confucian philosophy  was written in  Four Books and  in  Five  Classics

The Four Books (Tứ thư)

  -The Great Learning (Chinese: 大學; pinyin Dàxúe) Đại H ọc

   -The Doctrine of the Mean (Chinese: 中庸; pinyin: Zhōngyōng)Trung Dung

   -The Analects of Confucius (Chinese: 論語; pinyin: Lùnyǔ) Luận Ngữ

   -The Mencius (Chinese: 孟子; pinyin: Mèngzǐ): Mạnh Tử

The Five Classics  (Ngũ Kinh )

   -The Classic of Poetry (Chinese: 詩經; pinyin: Shījīng) :Thi

    -The Classic of History (Chinese: 書經; pinyin: Shūjīng) :Thư

    -The Classic of Rites (Chinese: 禮經; pinyin: Lǐjīng):Lễ Kư

     -The Classic of Changes (Chinese: 易經; pinyin: Ýjīng; I Ching) : Dịch

     -The Spring and Autumn Annals (Chinese: 春秋; pinyin: Chūnqīu): Xuân Thu

 
 

 

     Confucianism- a socio-ethical theory-

   Confucianism   has set a moral code of values for people to follow so that they could live in harmony and the society could benefit as a result. It focuses on roles or rituals- formalized behaviors- rather than people; it stresses the collectivity ( family, village, nation) rather than the personal feelings and  desires of the individual. It suggests that if people could change themselves by internalizing these rituals, the  society would likely be more harmonious and peaceful.

At the core of these precepts is the  respect of natural laws and order,  of authority and of the elders.    It does not call for any  enforcement  of its rules.  “Guide them by virtue, keep them in line with the rites, and they will, besides having a sense of shame, reform themselves (Analects II,3”.If a person does not respect his parents, he will not receive any jail  time but would be subjected to the scorn and derision of his neighbors.  Strangely enough, these simple precepts have helped Confucian Asian states weather socio-political storms and survive for more than two millennia until they were toppled by European colonialists

Virtues plays an important role in Confucian teaching. A good or virtuous person follows moral values, practices humanity, and cultivates himself. He helps out the needy: he does not make the rich richer. (Analects 6,4). He lives in harmony with other people, and Troi. People  will follow him

    Confucianism  in Vietnam

At  an early age, Vietnamese children learn their position within the family and the highly structured and hierarchical society.

 Age and ranking are the determining factors: an uncle ranks one level above his cousin although he could be younger than him. Being a senior has its own privilege for it represents the age of wisdom: their opinions are  valued and sought for.  Seniors are pampered and positioned at the head of the table during any festivity or town meeting; they are  fed first and given the best food.  The heads of the served fish, poultry, or even pigs are reserved for the most senior or highest ranking person.  The  elder would wrap up the head and bring it home for display as a sign of his importance within the group. Young people dare not eat until the elders had taken their first bite. They bow to them anywhere they met them

The father-children relationship is based on hieu (filial piety) and on moral debt. Out of hieu, the heroine Kieu in the Tale of Kieu decided to trade herself to raise cash in order to save her father. Lullabies mothers sang to their children described the immensity of the debt children owed to their  parents.  It has  been compared to Mount Thai Son and the Pacific Ocean for the father and  Mother respectively.  It is so immense that children are never expected to fully repay no matter what they did.  These teachings re-enforced at home, at school become engrained in the psyche of the children- read rituals-, and form the core of the  Vietnamese culture.

A corollary of the parents-children relationship is that children would care for their parents at home and would not send them to the impersonal nursing homes-which are a western invention. If they are busy working, they would hire some one to care for their parents in their absence. This filial duty does not stop when parents died: children continued to venerate them and pray for their souls, which in turn would protect them from calamities or bad spirits. From there derives the cult of ancestors.

Another corollary of the parents-children relationship is that Confucian children tend to remain dependent on their parents even after they have reached adulthood. This concept is different from western rules, which always enjoin them to be independent:” a man should leave father and mother and cling on to his wife.

 

According  to Tam tong ( Three submissions)

Gender played an important role in this patriarchal society, which valued men more than women. It has been mentioned that one boy is worth more than one hundred girls.  In  public, he speaks or answers questions while she always defers to him. She walks two or three steps behind him, but never side to side..  In fact, this is a  segregated society as men ate with men one one side of the table or room while women gathered around women on the other side.  This is a master-servant not an equal relationship. As a result, women resented these burdensome regulations, although they had managed to go around them on many occasions

 

According to Tu Duc (Four Virtues) of Confucianism

 A woman  should be above all a good homemaker.  She is confined to the kitchen and even lives in the kitchen if the house is small.  When her husband’s guests visit him, she remains in the kitchen unless called out by him.  Her title of noi tuong or minister of the interior denotes her unique role in the house