Phụ nữ Việt |
||
Chỗ đứng của Người Phụ Nữ Việt trong nền văn hóa quê hương Chúng ta thường hay dùng từ ngữ Đất Mẹ khi nói về tổ quốc, khi nói về quê hương. Chúng ta cũng thường cổ vơ con em chúng ta đừng quên tiếng mẹ đẻ khi truyền bá văn hóa Việt tại hải ngoại, bởi lẽ c̣n tiếng mẹ đẻ là c̣n văn hóa quê hương, mất tiếng mẹ đẻ là mất văn hóa dân tộc, và mất luôn dân tộc. Qua những lời lẽ nêu trên, chúng ta mặc nhiên công nhận rằng người Phụ Nữ Việt được đánh giá rất cao trong lănh vực xây dựng nền văn hoá quê hương Việt thân yêu . Xin mời quí độc giả cùng tôi t́m hiểu vài nét son về Vai Tṛ, Phẩm Chất và Tứ Đức ṇng cốt của người Phụ Nữ Việt trong lănh vực văn hoá. Tự Lực Văn Đoàn vào năm 1930 là nhóm người tân học thiên về văn hóa Tây Phương. Họ phát động phong trào tẩy chay luân lư Khổng Mạnh trong nền văn hóa Việt. Họ cho rằng luân lư Khổng Mạnh dùng quy chế TamṬng đè nén giai cấp phụ nữ: Theo luân lư Khổng Mạnh th́ người phụ nữ "tại gia ṭng phụ, xuất gia ṭng phu, phu tử ṭng tử ".
Tự Lực Văn Đoàn hiểu chữ Ṭng là tùng phục. Người phụ nữ c̣n nhỏ phải tùng phục cha, khi lấy chồng th́ phải tùng phục chồng, và khi chồng chết th́ phải tùng phục con.. Tôi thiết nghĩ Tự Lực Văn Đoàn quá sùng bái văn hóa Tây Phương mà quá thành kiến nghĩ xấu về luân lư Khổng Mạnh trong nền văn hóa Việt. Văn hóa nào cũng có ưu điểm, và khuyết điểm. Người khôn ngoan nên t́m hiểu sự kiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau trước khi tẩy chay sự kiện đó. Theo tôi hiểu, từ ngữ Tam Ṭng c̣n có nghĩa lành mạnh. Ṭng đây có nghĩa là theo. Khi c̣n nhỏ, th́ người con gái cũng như người con trai phải bám vào bố mẹ để được nuôi dưỡng, ăn học, và giáo dục. Khi lớn lên th́ đi lấy chồng thành lập gia đ́nh mới. Trong gia đ́nh này, chồng là cái đầu , vợ là cái cổ. Cái đầu chỉ hoạt động được khi cái cổ cộng tác. Vợ theo chồng để thành lập gia đ́nh, chứ không phải chỉ phục tùng chồng theo nghĩa của Tự Lực Văn Đoàn. Khi chồng chết, th́ người phụ nữ đă tuổi cao, già cả và sức yếu, phải nhờ đến con nuôi dưỡng, cũng là cơ hội cho người con thi hành chữ hiếu nuôi dưỡng mẹ. Nếu Ṭng Tử theo nghĩa tùng phục con, th́ đạo hiếu của người con để đâu? Đạo hiếu này người Việt rất tự hào, c̣n người Tây Phương rất kính nể .
Thực tế, người phụ nữ không bị đè nén, như Tự Lực Văn Đoàn tưởng, mà người phụ nữ rất có thế giá trong gia đ́nh Việt cũng như ở chế độ Xă hội Việt.
1- Vai tṛ nội tướng của người phụ nữ trong gia đ́nh
Trong một xă hội nông nghiệp, người đàn bà Việt hiểu rơ vai tṛ của ḿnh. Vai tṛ này không phải dễ dàng như người ta tưởng. Khi chồng bận việc quan, bận đi chinh chiến, bận việc làng, bận việc đồng áng th́ ở nhà người vợ ngọt bùi hiếu thảo thay cho chồng, luyện con đèn sách "quả là thiếp làm phụ thân". Khi chồng giận th́ vợ làm lành, miệng cười hớn hở rằng " Anh giận ǵ? Thưa anh, anh giận em chi ?, muốn lấy vợ lẽ em th́ lấy cho". Thật là vợ khéo, biết chiều chồng số một. Nếu chồng cứ tiếp tục dữ dằn, th́ vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê. Ca dao có rất nhiều câu diễn tả cách ứng xử của người đàn bà rất hữu hiệu khi mới về làm dâu : làm sao không phật ư chồng, làm sao không mất ḷng mẹ chồng, làm sao gia đ́nh bố mẹ vợ không xung khắc với gia đ́nh nhà chồng. Đấy là những cách ứng xử rất khó khăn và tế nhị vô cùng. Người Việt có thói quen không muốn làm mất ḷng ai, không muốn để ai cười ḿnh. Cái sĩ diện của người Việt là một cái ǵ rất quan trọng . Cái sĩ diện đó người đàn bà Việt lại càng quan tâm bội phần. Xin đan cử một cách ứng xử của người đàn bà khi về nhà chồng: Người đàn bà biết rằng không thể v́ ḿnh mà anh em ruột nhà chồng phải xa nhau. Cách xử sự của người đàn bà là uốn ḿnh thành một cây leo để theo hoàn cảnh của gia đ́nh nhà chồng luôn luôn tốt đẹp ( chuyện trầu cau chứng minh điểm đó )
2- Vai tṛ bảo vệ nước của người phụ nữ ngoài Xă hội
Lịch sử Việt đă ghi chép rất nhiều công trạng giới phụ nữ đă đóng góp mạng sống nơi chiến trường để bảo vệ quê hương đất Việt : a/ - Vào thời Bắc thuộc lần 1, năm 40 sau Công Nguyên, hai Bà Trưng nổi lên chống sự tàn bạo của thái thú Tô Định và ách thống trị nhà Hán. Cuộc khởi nghĩa đă nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật nam và Hợp Phố , rồi các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành tŕ) hưởng ứng, nên hai Bà lập lên một nước độc lập, đóng đô tại Mê Linh. Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mă Viện đánh bại. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên không đủ sức chống cự lại quân Mă Viện, hai Bà Trưng đă tuẫn tiết trên ḍng sông Hát để giữ vẹn khí tiết. Cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng được coi là sự kiện đấu tranh giành lại quyền độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
b/- Bà Triệu ( Triệu Thị Trinh ) cùng anh là Triệu Quốc Đạt năm 248, khởi nghĩa chống lại quân Đông Ngô cai trị tàn ác. Bà rất can đảm, thường nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng ḱnh ở bể đông, quét sạch bờ cơi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm t́ làm thiếp người ta”. c/ Bà Bùi Thị Xuân quê quán thuộc thôn Phú Xuân, xă B́nh Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh B́nh Định. Bà là con gái của ông Bùi Đắc Chí. Sinh trưởng trong một gia đ́nh khá giả, Bà Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học vơ. Tương truyền, Bà là người có nhan sắc, khéo tay và viết chữ đẹp. Đến khi theo học vơ với Đô thống Ngô Mạnh, Bà cũng nhanh chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm. Nhờ vậy sau này, Bà đă dùng kiếm để giải nguy cho Ông Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà bà để trị vết thương, rồi cùng nhau về ṭng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc . Với tài nghệ (ngoài tài kiếm, bà c̣n giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi) cộng với ḷng dũng cảm, Bà Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi khoảng 20 vạn quân Xiêm trên đoạn sông Rạch Gầm- Xoài Mút (Tiền Giang) năm 1785, trận đại phá quân Măn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789. Bà có tấm ḷng thương dân. Gặp năm mất mùa, nhiều phủ huyện ở trấn Quảng Nam sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Triều thần lập tức tiến cử Bà Bùi Thị Xuân ra nơi đó làm Trấn thủ. Đến nơi, bà tự ḿnh đi thị sát khắp các hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hối lộ... Bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra, Bà c̣n ra lệnh băi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và mạnh dạn ra tuyên cáo rằng: Ai vác cày bừa, nông cụ th́ được coi là dân lành...V́ thế nạn trộm cướp và chống đối ở Quảng Nam (nhất là ở huyện Quế Sơn) nhanh chóng chấm dứt, dân chúng lại được yên ổn làm ăn.. |
||
3- Vai tṛ mở rộng lănh thổ quốc gia của người phụ nữ ngoài Xă hội:
-Lịch sử Việt cũng đă ghi chép rất nhiều công trạng giới phụ nữ đă chấp nhận sự kết hôn với các vua chúa các nước lân bang để có cơ hội mở rộng ranh giới quê hương Việt
a/.- CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN chấp nhận kết hôn với vua Chế Mân Chiêm Thành vào năm 1306 dưới thời vua Trần Anh Tôn để Việt Nam (Đại Việt thời đó) có thêm hai châu-Ô &Lư (QuảngTrị,Thừa Thiên). Vua.Chế Mân Chiêm Thành dâng vua Trần hai châu để cưới công Chúa Huyền Trân. Nhà Trần đổi châu Ô làm Thuận Châu, đổi Châu Lư làm Hóa Châu.. Châu Ô từ đèo Lao Bảo Đến sông Thạch Hăn phía Nam tỉnh Quảng Trị. Châu Lư ngày nay là tỉnh Thừa Thiên Huế
b/-Công Chúa Ngọc Vạn con Săi Vương vào năm 1620 (canh thân) chấp nhận kết hôn với vua Chân Lạp là Chey-Chetta II, để ba năm sau cuộc hôn nhân, Săi Vương Nguyễn Phước Nguyên cử một sứ bộ sang Chân Lạp xin vua Chey-Chetta II nhượng khu dinh điền ở vùng Mô Xoài, gần Bà Rịa ngày nay. Nhờ sự vận động của hoàng hậu Ngọc Vạn, vua Chân Lạp đồng ư cho người Việt đến đó canh tác. Đây là lần đầu tiên người Việt chính thức đặt chân lên đất Chân Lạp, và Mô Xoài là bàn đạp để người Việt dần dần tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long. Lịch sử ghi chép hai lần bà Ngọc Vạn đă dẫn đường cho người Việt mở đất về phương nam. Lần thứ nhất sau cuộc hôn nhân năm 1620 và lần thứ nh́ trong cuộc tranh chấp nội bộ vương quyền Chân Lạp năm 1658
c/- Công Chúa Ngọc Khoa con thứ ba của Săi Vương Nguyễn Phước Nguyên chấp nhận kết hôn với vua Chiêm là Poromê, nhắm rút ng̣i nổ của phía Chiêm Thành, bảo đảm an ninh mặt nam c ủa qu ê h ương Việt thời đó . Lịch sử Việt ghi chép hai công chúa Ngọc Khoa và Ngọc Vạn, tuy không chính thức đem lại đất đai về cho đất nước như công chúa Huyền Trân, nhưng cả hai đều đă mở đường cho cuộc Nam tiến, và quả thật khoảng một thế kỷ sau đó, chúa Nguyễn đă mở rộng biên cương về phía nam như địa h́nh nước Việt ngày nay 4- Vai tṛ phục vụ văn học và cải tạo xă hội Việt a/- Bà Nguyễn thị Duệ Bà là nữ tiến sỹ Việt đầu tiên trong thời Phong Kiến. Bà sinh năm 1574 tại làng Kiệt Đặc xă Văn An,Chí Linh Hải Dương. Năm 1592 Nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng, th́ Bà theo gia đ́nh lên đó sinh sống. Năm 10 tuổi biết làm văn, hiếu học. Khoa thi 1594, v́ luật lệ không cho phép con gái thi cử nên bà giả trai đi thi và Bà đỗ thủ khoa. Tṛn 20 tuổi, bà trở thành nữ tiến sỹ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến. Trong buổi Ngự yến đăi các tân khoa, Vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi dáng mảnh mai mặt mày thanh tú sinh ḷng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi phát hiện bà giả trai. Bà không bị khép tội c̣n được vua khen ngợi. Vua mời vào Kinh để dạy các phi tần rồi tuyển làm phi, phong là Tinh Phi. Năm 1625 quân Lê Trịnh tiến lên Cao bằng diệt nhà Mạc. Cảm phục khí tiết của bà, quân Trịnh nộp cho Chúa Trịnh. Chúa Trịnh rất sủng ái phong cho bà chức Cung Trưng Giáo Tập rồi Lễ Nghi học sĩ để trông voi việc dạy học trong vương phủ. Bà có công cho nền giáo dục. Bà quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia.Phần lớn các kỳ thi Đ́nh , thi Hội bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa Chúa đều nhờ Bà khảo duyệt lại. Năm Đức Long thứ 3 ( vua Lê Thần tôn) Bà làm giám khảo kỳ thi Tiến sỹ 1631 được tổ chức tại làng Mao Điền Hải Dương . Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ nên xưng tụng Bà là Nghiêu Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời .Bà là bạn thân của Hoàng hậu Trịnh thị Ngọc Trúc vợ vua lê Thần tôn. Sau khi mất Triều đ́nh ban sắc phong, dựng bảo tháp Tinh Phi cổ Tháp, Tháp này đổ nát, chỉ c̣n bia ở chùa Phổ Chiếu. Về già Bà đi tu ở chùa Vụ Nông hạt Gia Lâm hiệu Diệu Huyền. Khi bà chết được tôn làm Phúc Thần. b/- Bà Nguyễn thị Lộ (1400 -1442) Sau khi cha bà đi phu bị quân Minh giết chết, bà cùng mẹ tần tảo nuôi dạy các em. Một lần lên kinh thành Thăng Long bán chiếu, bà đă gặp Nguyễn Trăi, rồi trở thành vợ thứ của vị quan này. Sử gia Phan Huy Chú chép: "Khi ông Nguyễn Trăi lo việc nước, những chiếu thư, từ mệnh đều được bà nhuận sắc. Vua Lê Thái Tông nghe tiếng, vời bà về hầu cho làm Lễ nghi học sĩ "Ở cương vị này, bà đă hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được sử gia nhà Lê là Vũ Quỳnh khen là: Thị Lộ đă cảm hóa được Lê Thái Tông, thuyết phục vua chăm chỉ đèn sách, lại giúp vua nhiều ư kiến để sửa trị nước. Bà là một nữ quan nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Xin quí vị độc giả thưởng thức những câu thơ xướng họa giữa ông Nguyễn Trăi và bà qua Bài thơ chiếu gon Ông Nguyễn Trăi xướng Ả ở nơi nào, bán chiếu gon? Chẳng hay chiếu ấy hết hay c̣n? Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?
Đă có chồng chưa, được mấy con? Bà Nguyễn thị Lộ hoạ Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon, Cớ chi ông hỏi hết hay c̣n? Xuân xanh vừa độ trăng tṛn lẻ Chồng c̣n chưa có, có chi con! c/ - Bà Hồ Xuân Hương Bà tên thật là Hồ Phi Mai, tên hiệu là Xuân Hương, sinh năm 1772 tại Phường Khán-Xuân, Huyện Vĩnh thuận, Thành Thăng-Long, chết năm 1823 thọ năm 51 tuổi,an táng tại làng Nghi-Tầm, cạnh Hồ Tây Hà Nội. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương xuất hiên ở giai đọạn Trịnh Nguyễn phân tranh chia đôi đất nước, thời b́nh sinh, nữ sĩ ngồi dậy học bên cạnh QUÁN TRÀ (Salon littèraire) của bà Mẹ. Nữ sĩ là nhà thơ có bản lĩnh mạnh mẽ, được coi là người tiền phong cách mạng Văn hóa. Nữ sĩ sống ở thời đại phong kiến, thời mà đàn bà bị coi là thấp kém, làm cho Bà có phản ứng dữ dội. Nữ sĩ lấy những vật tầm thường để tự ví ḿnh…và để chọc thiên hạ. Nữ sĩ châm chọc cái Xă hội phong kiến. Xin thưởng thức những câu thơ của bà: Bánh Trôi Nước: Thân Em vừa trắng lại vừa tṛn, Bẩy nổi, Ba ch́m với Nước non Rắn nát mặc dầu,tay kẻ nặn. Mà EM vẫn giữ tấm ḷng son Thân phận đàn bà: Hỡi chị em ơi! Có biết không ? Một bên con khóc một bên chồng, Bố cu lỏm ngỏm ḅ trên bụng, Thằng bé hu hơ khóc dưới hông Tất tả, những là thu với vén, Vội vàng nào những bống cùng bông. Chồng con cái nợ là như thế !..’ Hỡi chị em ơi !...có biết không ..?.. d/ - Bà Đoàn Thị Điểm (1705-1748) Bà quê tại làng Hiến Phạm, xă Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà là người có tài trí và nhan sắc hơn người, nổi tiếng từ hồi trẻ. Năm 6 tuổi đă học rất giỏi. Về sau cha mất, gia đ́nh phải chuyển về quê nhà, cùng anh trai Đoàn Luân hành nghề dạy học. Nhưng v́ ông Luân mất sớm, bà dạy học kiêm luôn nghề bốc thuốc, gần như một tay nuôi sống cả gia đ́nh - gồm 2 cháu nhỏ, mẹ và bà chị dâu goá. Năm 1743, bà nhận lời làm vợ kế binh bộ tả thị lang Nguyễn Kiều . Bà ( hiệu là Hồng Hà nữ sĩ) là một nữ sĩ danh tiếng nhất thời Lê, tác giả bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm. Bà viết sách nhiều nhưng thất lạc cũng nhiều, hậu thế chỉ c̣n biết đến một vài tác phẩm gồm:Tục truyền kỳ, Chinh Phụ Ngâm.Chinh Phụ Ngâm là bản việt hoá của tác phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng hán văn của ông Đặng Trần Côn sáng tác. Bản dịch gồm 412 câu theo lối song thất lục bát, trong diễn tả nhiều tâm trạng: hy vọng, buồn bă, giận hờn tựu về một mối đó là nỗi nhớ nhung khắc khoải của một người chinh phụ (vợ có chồng đi lính) đang chờ chồng trở về sum họp.Đây có lẽ cũng là tâm trạng của bà Điểm trong các năm 1743 –1746 khi ôngNguyễn Kiểu đi sứ sang Trung Quốc.Tuy là bản dịch, nhưng thậm chí c̣n được yêu thích hơn bản chính, nên đến nay được xem như là một sáng tác của bà .Xin thưởng thức những câu thơ của bà:Cảnh tiễn biệt : Cùng quay lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu, Ngàn dâu xanh ngắt một mầu, Ḷng chàng, ư thiếp ai sầu hơn ai? Nhiệm vụ khi chồng xa vắng : Ḷng lăo -thân buồn khi tựa cửa, Miệng hài- nhi chờ bữa mớm cơm. Ngọt bùi thiếp đỡ hiếu-nam, Luyện con đèn- sách thiếp làm phụ- thân
Sự kính yêu của người đời sau với Bà không chỉ v́ tài thi văn điêu luyện, đặc sắc, c̣n v́ bà có những phẩm chất cao quư, đức hạnh tốt đẹp xứng đáng là mẫu phụ nữ tiêu biểu của xă hội Việt Nam ở mọi thời đại. e/ - Bà Huyện Thanh Quan Bà tên thật: Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội . Người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan v́ Chồng bà tên là Lưu Nghị, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà Đông đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mệnh thứ 2), từng làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái B́nh.Dưới thời vua Minh Mạng bà được vời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi. Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời. Bà là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Bà sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật. Hiện gồm những bài sau: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà. Xin thưởng thức Bài thơ Qua Đèo Ngang tức Cảnh: Bước tới Đèo Ngang , bóng xế tà; Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia, Dừng chân đứng lại : trời, non nước, Một cảnh t́nh riêng : ta với ta. |
Tác giả: LÊ THƯƠNG
Khi đề cập đến phụ nữ Việt Nam, ai ai cũng đều thừa nhận rằng từ ngàn xưa cho đến nay họ là những người đàn bà dịu hiền, thùy mị, đoan trang, đảm đang, trung trinh tiết hạnh, giàu ḷng hy sinh. Trong gia đ́nh th́ hiếu thảo với cha mẹ, tảo tần lo cho chồng con, ra ngoài là những bậc anh thư liệt nữ. Chính những đức tính đẹp nầy đă nâng cao phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam: Phụ nữ Việt Nam trung trinh tiết hạnh, Trang điểm cuộc đời muôn cánh hoa thơm. Ra ngoài giúp nước, giúp non, Về nhà tận tụy chồng con một ḷng. Trong suốt chiều dài của ḍng lịch sử và chiều sâu của ḷng dân tộc, phụ nữ Việt Nam đă liệt oanh viết nên những trang sử vàng son làm vẻ vang giống ṇi như Bà Trưng, Bà Triệu; nữ tướng Bùi Thị Xuân của Quang Trung; Cô Giang, Cô Bắc của Việt Nam Quốc Dân Đảng… C̣n về thi văn, ta có Bà Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Bà Hồ Xuân Hương, Bà Sương Nguyệt Ánh… đều là những nữ sĩ tài hoa, nức tiếng trên văn đàn, là những cánh hồng tươi thắm trong vườn hoa văn học. Ngoài ra, c̣n có biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác sống một cuộc sống b́nh thường, thầm lặng nơi thôn trang, xóm làng mà những nét đẹp về tâm hồn của họ được dân gian ca tụng bằng những áng văn, những vần thơ, điệu hát, câu ḥ hay qua những vần ca dao phong phú. Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca b́nh dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đă đi vào ḷng dân tộc và lạc vào rừng ca dao của kho tàng văn học, ta sẽ bắt gặp h́nh ảnh của người phụ nữ Việt Nam qua những đức tính cao quư của họ: Nói đến phụ nữ Việt Nam, trước hết phải nói đến ḷng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh đối với bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu mà bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song thân: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một ḷng thờ mẹ, kính cha, Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con. Đó là đối với cha mẹ, c̣n đối với bản thân th́: Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh làm câu trao ḿnh. |
||
Người phụ nữ Việt Nam, ngay từ lúc c̣n ẵm ngửa cho đến khi biết lật, biết ḅ lớn dần trong nhịp vơng đưa qua tiếng hát của bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em: Nhà Bè nước chảy chia hai, Ai về Gia Định, Đồng Nai th́ về.
Hay qua điệu hát ầu ơ:
Ầu ơ… Bao giờ Chợ Quán hết vôi, Thủ Thiêm hết giặc, em thôi đưa đ̣. Bắp non mà nướng lửa ḷ, Đố ai ve được con đ̣ Thủ Thiêm. Hoặc qua điệu ru ạ ờ: Ạ ờ… Cái ngủ mày ngủ cho lâu, Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về. Bắt được con cá rô, trê, Tṛng cổ lôi về cho cái ngủ ăn… Những vần ca dao mộc mạc, b́nh dị đă đưa em bé gái Việt Nam vào giấc ngủ an b́nh và từ ngày nầy qua ngày khác, tiếng ru lắng đọng, thẩm thấu vào tiềm thức của em bé nên sau nầy lớn lên thành chị, thành mẹ, thành bà lại hát để ru em, ru con, ru cháu theo nhip vơng đưa kẽo kẹt đều đều. Hát ru em, hát ầu ơ, ạ ờ là một điệu hát thông dụng được phổ biến từ thôn xóm, làng mạc cho đến thị thành. Hát ru em là một bản trường ca bất tận của kho tàng văn chương Việt Nam. Vào những buổi trưa vắng lặng hay những đêm khuya yên tĩnh, cùng với tiếng vơng đưa, giọng hát ầu ơ, ạ ờ dịu dàng, tŕu mến của bà, của mẹ, của chị vang măi trong ḷng đứa trẻ ấu thơ. Tiếng vơng đưa kẽo kẹt đều đều cùng với tiếng hát đă văng vẳng từ bao thề hệ trên đất nước Việt Nam theo ḍng sinh mệnh của dân tộc. Trải qua bao nhiêu thế hệ, trong mọi gia đ́nh, nghèo cũng như giàu, cái nhịp đều đều của tiếng vơng đưa không bao gời dứt. Không có người Việt Nam nào không từng hơn một lần nằm vơng và tiếng vơng đưa ḥa cùng tiếng trẻ khóc, tiếng hát ru đă trở thành điệu nhạc muôn đời của dân tộc ta. Thấm thóat, em bé gái Việt Nam nho nhỏ ngày nào nay đă lớn dần và có thể giúp đỡ mẹ những công việc lặt vặt. Một đôi khi lầm lỗi trong công việc bị mẹ quở mắng hay đánh đ̣n, em không bao giờ dám oán trách mẹ. Nếu bị quở mắng th́ nhỏ nhẹ rằng: Mẹ ơi đừng mắng con hoài, Để con bẻ lựu, hái xoài mẹ ăn. C̣n nếu bị đánh đ̣n, nàng chỉ thỏ thẻ: Mẹ ơi đừng đánh con đau, Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ. Theo thời gian, cô bé Việt Nam bây giờ đă trở thành thiếu nữ dậy th́, trước khi lấy chồng, một đôi lúc ngồi nh́n những hạt mưa rơi, nàng nghĩ vẩn vơ: Thân em như hạt mưa rào, Hạt sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Hay bâng khuâng tự hỏi:
Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Ngồi cành trúc, tựa cành mai, Đông đào , tây liễu biết ai bạn cùng? Đến tuổi dậy th́, phụ nữ Việt Nam trổ mă, đẹp dần lên. Mỗi nàng một vẻ đẹp riêng, người th́ đẹp qua đôi mắt, người khác đẹp ở mái tóc, có cô đẹp qua nụ cười, cô khác đẹp bằng hai má lúm đồng tiền, có người đẹp với chiếc eo thon thon, dáng đi yểu điệu, có người đẹp trừu tượng qua tâm hồn… Tóm lại, mỗi người một vẻ để làm rung động hay làm xao xuyến con tim của người khác phái. Những phụ nữ có đôi mắt lá răm, lông mày lá liễu được ca dao khen rằng: Những người con mắt lá răm, Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền. Hay những người có làn da trắng nơn, má lại hồng hồng, môi đỏ thắm: Ai xui má đỏ, môi hồng, Để anh nhác thấy đem ḷng thương yêu. Đă đẹp mặt mà c̣n đẹp về vóc dáng nữa th́ “chim phải sa, cà phải lặn” cho nên những phụ nữ có chiếc eo thon thon: Những người thắt đáy lưng ong, Đă khéo chiều chồng lại khéo nuôi con. Mái tóc cũng đóng vai tṛ quan trọng trong việc trang điểm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: Tóc em dài em cài bông hoa lư, Miệng em cười anh để ư anh thương. Mái tóc dài, đẹp c̣n làm xao xuyến ḷng người: Tóc đến lưng vừa chừng em bới, Để chi dài bối rối dạ anh. Nụ cười là nét duyên dáng, nét quyến rũ của người phụ nữ. Từ xưa cho đến nay có rất nhiều đàn ông đă chết v́ nụ cười của phái đẹp: Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng, Thương em chúm chím cười duyên một ḿnh. Cũng thế, ta thường nghe ai đó ngâm hai câu ca dao: Nàng về nàng nhớ ta chăng, Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười. Và ca dao cũng không quên ca tụng nét đẹp tâm hồn của phụ nữ Việt Nam: Chim khôn hót tiếng rảnh rang, Người khôn ăn nói dịu dàng dễ thương. Phụ nữ Việt Nam vốn cháu con Quốc Mẫu Âu Cơ, ḍng dơi tiên nên nhu ḿ, thùy mị được tiếng là đẹp, rất đẹp, nhất là trong chiếc áo dài tha thướt với vành nón lá che nghiêng nghiêng mái tóc xơa bờ vai. Có biết bao nhiêu chàng trai đă trồng cây si ở cổng trường Trưng Vương, Gia Long, Đồng Khánh, Sương Nguyệt Ánh, Bùi Thị Xuân… v́ những tà áo dài thướt tha nầy và mái trường đă từng là chứng nhân của những mối t́nh đẹp tựa bài thơ, đẹp như đêm trăng huyền ảo. Trước cái đẹp của phụ nữ Việt Nam, mấy ai thuộc phái nam đă không từng cất giấu trong tim một bóng hồng của thời yêu thương ướt át: Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Năm thương cổ yếm đeo bùa, Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng. Bảy thương nết ở khôn ngoan, Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh. Chín thương em ở một ḿnh, Mười thương con mắt đưa t́nh với anh. Nét đẹp của phụ nữ Việt Nam c̣n làm cho trái tim nhà vua đập sai nhịp v́ bị “tiếng sét ái t́nh”: Kim Luông có gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi. Dân tộc Việt Nam là dân tộc hiền hậu, hiếu ḥa, cần cù nhẫn nại lại trọng đạo lư cho nên khi con cái vừa lớn khôn th́ được gia đ́nh, nhà trường, xă hội dạy những bài học luân lư về cung cách ở đời, ăn ở có nhân có nghĩa theo đạo lư làm người và phụ nữ Việt Nam cũng được giáo huấn: Con ơi mẹ bảo con này, Học buôn, học bán cho tày người ta. Con đừng học thói điêu ngoa, Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười. Nhờ được giáo huấn cho nên phụ nữ Việt Nam đoan trang, thùy mị, nết na: Sáng nay tôi đi hái dâu, Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn. Hai anh đứng dậy hỏi han, Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu? Thưa rằng tôi đi hái dâu, Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn. Thưa rằng bác mẹ tôi răn, Làm thân con gái chớ ăn trầu người. Và xa hơn nữa: Ở nhà c̣n mẹ, c̣n cha, Lẽ đâu tôi dám nguyệt hoa cùng người. Phụ nữ Việt Nam khi đến tuổi bước vào con đường yêu đương th́ yêu nhẹ nhàng, kín đáo. Nhẹ nhàng đến nỗi t́nh yêu của nàng len lén len lỏi vào tim hồi nào mà chàng trai không hay: Vói tay ngắt lấy cọng ng̣, Thương anh muốn chết giả đ̣ ngó lơ. Giả đ̣ ngó lơ, e thẹn, bẽn lẽn, len lén ngó mà không dám ngó lâu là những cử chỉ yêu đương nhẹ nhàng, kín đáo rất dễ thương của người phụ nữ Việt Nam: Ngó anh không dám ngó lâu, Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi. Nhưng khi đă yêu th́ phụ nữ Việt Nam yêu một cách đứng đắn, yêu đậm đà, tha thiết với tất cả con tim ḿnh: Qua đ́nh ghé nón trông đ́nh, Đ́nh bao nhiêu ngói, thương ḿnh bấy nhiêu. T́nh yêu của nàng c̣n sâu đậm hơn nữa: Yêu chàng lắm lắm chàng ôi, Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than. Khi yêu, ngoài t́nh yêu đậm đà, tha thiết, phụ nữ Việt Nam lại c̣n chung t́nh: Bao giờ cạn lạch Đồng Nai, Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền. Và chung t́nh cho đến chết vẫn c̣n chung t́nh:
Hồng Hà nước đỏ như son, Chết th́ chịu chết, sống c̣n yêu anh. Trước khi lấy chồng, phụ nữ Việt Nam cũng có thừa thông minh để lựa chọn ư trung nhân: Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bơ công trang điểm má hồng lâu nay. Hay mượn những vần ca dao nhắn nhủ với giới mày râu rằng muốn kết duyên vợ chồng, gá nghĩa trăm năm với phụ nữ Việt Nam th́: Đèn Sài G̣n ngọn xanh, ngọn đỏ, Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu. Anh về học lấy chữ nhu, Chín trăng em đợi, mười thu em chờ. Đến ngày bước lên xe hoa về nhà chồng, phụ nữ Việt Nam không quên lạy tạ ơn sinh thành của cha mẹ: Lạy cha ba lạy, một qú, Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng. Khi cất bước ra đi về làm dâu nhà chồng, một lần cuối nàng cố ghi lại những kỷ niệm của thời thơ ấu vào tâm khảm: Ra đi ngó trước, ngó sau, Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng. Rồi lúc đă có chồng, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tâm niệm: Chưa chồng đi dọc, đi ngang, Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi. Hay: Đă thành gia thất th́ thôi, Đèo ḅng chi lắm tội Trời ai mang. Lấy chồng, người phụ nữ Việt Nam đẹp duyên cùng chồng: Trầu vàng ăn với cau xanh, Duyên em sánh với t́nh anh tuyệt vời. Và có h́nh ảnh nào đẹp hơn vợ chồng hạnh phúc trong cảnh thanh bần:
Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon. Dù nghèo, thanh bần nhưng phụ nữ Việt Nam học theo triết lư an phận, vẫn chung t́nh với chồng, không đứng núi nầy trông núi nọ: Chồng ta áo rách ta thương, Chồng người áo gấm, xông hương mặc người. Tinh thần chịu khó, chịu cực và khuyến khích chồng ăn học cho thành tài được diễn đạt qua những vần ca dao làm nổi bật đức tính hy sinh của phụ nữ Việt Nam: Canh một dọn cửa, dọn nhà. Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm. Canh tư bước sang canh năm, Anh ơi dậy học chớ nằm làm chi. Mốt mai chúa mở khoa thi, Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh. Bơ công cha mẹ sắm sanh, Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành. Đă có chồng con, người phụ nữ Việt Nam lại càng đảm đang, vừa lo cho con vừa lo toan mọi công việc nhà chồng: Có con phải khổ v́ con, Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng. Hoặc: Có con phải khổ v́ con, Có chồng phải ngậm bồ ḥn đắng cay. Có con, người phụ nữ Việt Nam lại gánh thêm trách nhiệm làm mẹ với t́nh mẫu tử thiêng liêng: Gió mùa thu mẹ ru con ngủ, Năm canh chầy thức đủ năm canh. T́nh mẫu tử của những bà mẹ Việt Nam bao la như trời bể, luôn luôn bảo bọc, che chở cho con: Nuôi con chẳng quản chi thân, Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.
|
||
Ngoài ra, phụ nữ Việt Nam c̣n phải đối diện với cảnh làm dâu nhà chồng. Trước đây, xă hội ta đă quan niệm sai lầm rằng người con dâu phải phục vụ gia đ́nh nhà chồng gần như một người đầy tớ và một số bà mẹ chồng rất khắc nghiệt với nàng dâu gây nên nhiều cảnh thương tâm cho người phụ nữ Việt Nam. Tự Lực Văn Đoàn đă đưa ra nhiều cuốn tiểu thuyết luận đề để đả phá quan niệm sai lầm nầy và ca dao ta cũng lên tiếng thở than dùm cho các nàng dâu Việt Nam: Làm dâu khổ lắm ai ơi, Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than. C̣n nếu đất nước gặp thời chinh chiến, người phụ nữ Việt Nam không bịn rịn mà hăng hái khuyến khích chồng hành trang lên đường trả nợ núi sông: Anh đi em ở lại nhà, Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ. Lầm than bao quản muối dưa, Anh đi anh liệu chen đua với đời. Phụ nữ Việt Nam, ngoài những đức tính đảm đang, giàu ḷng hy sinh, nết na, thùy mị c̣n là người con rất mực hiếu thảo: Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang, Ḷng nhớ công ơn cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng của người phụ nữ Việt Nam c̣n đươc diễn đạt qua mấy câu: Ân cha lành cao như núi Thái Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi. Dù cho dâng trọn một đời, Cũng không trả hết ân người sinh ta. Những món quà nho nhỏ như buồng cau, đôi giày nhưng nói lên ḷng hiếu thảo, ḷng nhớ ơn công cha nghĩa mẹ của người phụ nữ Việt Nam: Ai về tôi gởi buồng cau, Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy Hay là: Ai về tôi gởi đôi giày, Pḥng khi mưa gió để thầy mẹ đi. Khi phải đi xa hay lấy chồng xa, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tưởng nhớ về mẹ cha: Chiều chiều ra đứng ngơ sau, Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Phụ nữ Việt Nam c̣n gắn liền với dân tộc và lịch sử v́ thế khi tổ quốc lâm nguy, khi sơn hà nguy biến người phụ nữ Việt Nam hăng hái đưa vai gánh vác giang sơn như trường hợp Bà Trưng, Bà Triệu và những vị anh hùng liệt nữ khác. Tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định (Tranh dân gian Đông Hồ) Hai chị em Bà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị, quê quán làng Cổ Lai, đất Mê Linh. Lúc ấy nước nhà đang bị người Tàu cai trị bằng chính sách hà khắc khiến dân ta vô cùng khốn khổ. Rồi vào năm 40, sau Tây Lịch, Thái Thú Tô Định lại bắt giết ông Thi Sách, chồng Bà Trưng Trắc làm cho nợ nước chồng chất thêm thù nhà cho nên Bà Trưng Trắc cùng em là Bà Trưng Nhị đứng lên chiêu tập binh mă, anh hùng hào kiệt khắp nơi để đánh đuổi quân xâm lăng bạo tàn. Quân binh của Hai Bà chiến đấu rất dũng mănh, chiếm được 65 thành, đánh đuổi quân Tô Định chạy về Tàu. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cơi, dân chúng tôn Bà Trưng Trắc lên làm Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Đến năm 42, vua Tàu là Quang Vũ nhà Đông Hán sai Mă Viện kéo quân qua phục thù. Trước địch quân hùng hậu, quân ta chống cự không lại nên Hai Bà đă gieo ḿnh xuống gịng Hát Giang tuẫn tiết. Không có h́nh ảnh nào vừa hào hùng, vừa lăng mạn cho bằng h́nh ảnh của hai vị liệt nữ anh hùng gieo ḿnh xuống gịng nước trả nợ núi sông và để lại gương “Thiên thu thanh sử hữu anh thư”. Hai Bà Trưng làm vua được 3 năm, từ năm 40 đến năm 43. Khi vua Tự Đức đọc đoạn sử Hai Bà Trưng, ngài đă ngự phê: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa làm chấn động cả triều đ́nh Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế nhưng cũng đủ làm phấn khởi ḷng người, lưu danh sử sách”. Và Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đă ghi lại công nghiệp của Hai Bà bằng những vần ca dao lịch sử: Bà Trưng quê ở Châu Phong, Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên. Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân. Ngàn Tây nổi áng phong trần, Ầm ầm binh mă xuống gần Long Biên, Hồng quần nhẹ bước chinh yên, Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành. C̣n Bà Triệu, tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa vào năm 248, sau Tây Lịch để chống lại quân xâm lăng Đông Ngô của Tàu. Bà c̣n trẻ nhưng rất can đảm, Bà thường nói: “Tôi muốn cỡi gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém ḱnh ngư ở biển đông, quét sạch bờ cơi để cứu dân cứu nước chứ không thèm bắt chước người đời c̣ng lưng làm t́ thiếp người ta”. Ra trận Bà cỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong làm quân Ngô khiếp sợ. Nghĩa binh tôn Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân. Bà Triệu đă anh dũng đền nợ nước khi Bà mới có 23 tuổi: Ru con, con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành con voi. Muốn coi lên núi mà coi, Có Bà Triệu Tướng cỡi voi bành vàng. Bà Trưng, Bà Triệu là những bậc nữ lưu anh hùng đầu tiên trong lịch sử thế giới nổi lên sớm nhất chống ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Rất lâu về sau nầy nước Pháp mới có nữ anh hùng Jeanne D’ Arc nhưng sự nghiệp của Bà Jeanne D’ Arc cũng không lẫm liệt bằng công nghiệp to lớn, lẫy lừng của Bà Trưng, Bà Triệu. Thật xứng đáng: Phấn son tô điểm sơn hà, Làm cho tỏ mặt đàn bà Việt Nam! Mẹ tôi là phụ nữ Việt Nam, tôi rất hănh diện được làm một người con của phụ nữ Việt Nam. Tôi hết ḷng kính yêu mẹ tôi và tôi cũng hết ḷng kính mến người phụ nữ Việt Nam qua những cái đẹp và những đức tính cao quư của họ.
LÊ
THƯƠNG |