Tản-mạn lịch-sử I-05 Nguyễn-Lê-Hiếu
Nhà Lư thay nhà Lê, dựng lên một triều-đại lâu-dài hơn hai thế-kỷ. Trước đó là t́nh-trạng tự-chủ mới dành được; các vị anh-hùng tạo thời-thế nhưng chưa dựng được truyền-thống cho ḍng-họ vương-triều vững-chắc cho nên các triều-đại thay-đổi mỗi thế-hệ, khoảng hai, ba chục năm. Nền tự-chủ non-trẻ Đầu thế-kỷ thứ 10, dân ta vươn ḿnh thoát khỏi kiếp nô-lệ ngàn năm và khởi-sự xây nền tự-chủ. Giai-đoạn độc-lập của nước ta có thể chia làm hai giai-đoạn. Giai-đoạn đầu tạm gọi là giai-đoạn độc-lập-và-thống-nhất khoảng năm thế-kỷ, cả nước là một, một kinh-đô, một ḍng-họ vua. Tiếp theo là giai-đoạn độc-lập-nhưng-phân-chia, lúc đầu từ thời nhà Mạc và nhà Lê-trung-hưng tranh-giành quyền-lực, chia thành Bắc-triều Mạc chiếm-giữ kinh-đô Thăng-long và Nam-triều Lê khởi lên lại từ Thanh-hoá Tây-đô; lúc sau là Đàng-ngoài chúa Trịnh và Đàng-trong chúa Nguyễn, ḱm-kẹp nhau gần hai thế-kỷ; tiếp theo có cảnh loạn-lạc thời anh-em nhà Tây-sơn và Nguyễn-Ánh tranh-hùng, nước chia-ba-xẻ-bốn cho tới khi vua Gia-long thống-nhất sơn-hà vào đầu thế-kỷ 19. (1) Sự-việc nhà Lư chiếm ngôi nhà Lê xảy ra vào lúc gần đầu giai-đoạn độc-lập và thống-nhất. Vừa tỉnh giấc sau hơn một ngàn năm bị đô-hộ của người láng-giềng to-lớn phương bắc, dân ta có một lớp lănh-đạo anh-hùng thành-công, tự tạo hay chiếm-đoạt quyền-lực cho ḿnh. Họ cai-trị một thời-gian tương-đối ngắn, năm-mười năm, cho đến khi bị thay-thế bởi một lănh-đạo mới xuất-hiện. Họ không có thời-giờ xây-dựng một ḍng-họ lâu-dài, chưa kịp tạo nên một ḷng trung-thành vững-chắc, không những cho con nối-dơi mà c̣n ngay cho chính bản-thân họ. Những anh-hùng đó không thọ và con nối ngôi thường c̣n trẻ quá so với các cộng-sự-viên, tướng-lănh cũ của cha. Tướng họ Khúc là Dương-Diên-Nghệ đuổi quân Hán, nắm quyền được sáu năm. Kiều-Công-Tiện giết họ Dương, Ngô-Quyền giết họ Kiều, rồi làm vua được sáu năm; con quá nhỏ. Con Dương-Diên-Nghệ lấy lại quyền-hành, giữ được năm năm. Sau đó, con Ngô-Quyền lại nắm quyền được dăm năm. Nhưng đến lúc đó, các anh-hào xưng hùng xưng bá khắp nơi : đó là thời sau này gọi là Thập-nhị sứ-quân. Đinh-tiên-Hoàng thống-nhất đất-nước, trị-v́ được 12 năm, bị giết; con nhỏ, quyền-hành lại sang họ khác: Lê-Hoàn. Lê-Đại-hành làm vua được 24 năm, con là Long-đĩnh, 4 năm. Ngôi vua chuyển sang họ Lư. |
||||
Vua Lê Ngoạ-triều, đâu là sự thực?
Trước khi có chữ viết để ghi-chép sử th́ đă có chuyện dă-sử, cổ-tích lịch-sử. Khi có sử chép, người dân thường thích đọc thơ sử dễ nhớ hơn là sử viết. Dân ta biết nhiều về Đại-Nam Quốc-sử diễn-ca (ĐNQSDC) như là về đoạn Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tàn-bạo thù chồng chẳng quyên
hay là đoạn về Trần-quốc-Toản may cờ sáu chữ Phá cường địch báo hoàng ân được tóm-tắt trong hai câu Hoài-văn tuổi trẻ trí cao Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Về t́nh-cảnh vua Ngoạ-triều mà nhiều người muốn mang ra để bào-chữa cho việf thoán-đạt của nhà Lư, ĐNQSDC viết Ngoạ-triều thí-nghịch hôn-dung, Trong mê tửu-sắc, ngoài nồng h́nh-danh, Đao-sơn, kiếm-thụ đầy thành, Thuỷ-lao, bào-lạc, ngục-h́nh gớm thay. Bốn năm sầu oán đă đầy, Vừa tuần Lê rụng, đến ngày Lư sinh. (2)
Đoạn này kể tội của vua Ngoạ-triều : thí-nghịch là v́ giết anh là Trung-tôn, làm vua ba ngày th́ bị giết ; tửu-sắc ư nói vua uống rượu, chơi-bời hoang-dâm quá độ ; nồng h́nh-danh là có h́nh-phạt quá nặng-nề ai nghe cũng sợ ; đao-sơn, kiếm thành là tội phạt bị chém-giết rất nhiều ; thuỷ-lao là cái chuồng-tù d́m tội-nhân dưới nước ; bào-lạc là vạc-dầu. Đại-Việt Sử-kư Toàn-thư ( ĐVSKTT) ghi lại những chuyện bêu-riễu vua Ngoạ-triều kể lại, lẽ-dĩ-nhiên, dưới thời nhà Lư : Vua làm việc càn-dỡ giết vua cướp ngôi, thích dâm-đăng tàn-bạo, muốn không mất nước sao được?...Có lần vua róc mía trên đầu sư Quách-ngang, giả vờ lỡ tay làm đầu sư bị thương chảy máu rồi cả cười. (3) Những h́nh-phạt và chê-bai về tửu-sắc này th́ ta thấy các đời trước cũng có : vạc dầu chuồng cọp có từ thời Đinh v́ sau thời loạn-lạc, cần có h́nh-phạt nặng để giữ khuôn-phép. Về hiếu-sắc, các vua Đinh, Lê có năm hoàng-hậu. Sau vua Lư Thái-tổ có lập sáu bà, cuối đời lại thêm ba bà nữa, thành chín bà, vượt quá thời trước. Thành ra những tội kể không phải là mới của riêng vua Ngoạ-triều. Nhưng dù sao th́ cũng là lư-do để một số quan và sư vin vào để mà ủng-hộ Lư-Công-Uẩn cướp ngôi nhà Lê.
Mùa Đông, tháng 10, ngày Tân-hợi, (Năm Kỷ-dậu,
1009), vua băng ở tẩm-điện, gọi là Ngoạ-triều, v́ vua mắc bệnh trĩ
phải năm mà coi chầu (Dă-sử chép : vua say đám tửu sắc phát ra bệnh
trĩ). Tháng ấy, ngày Quư-sửu, Lư-công-Uẩn tự lập làm vua. (4)
Thâm-t́nh giữa hai vua và Sư Vạn-Hạnh
Lê-Long-Đĩnh dành cho Lư-công-Uẩn một sự ưu-ái đặc-biệt. Khi Lê-Trung-tôn bị thí, các quan chạy toán-loạn, bỏ vua ; riêng Lư-Công-Uẩn ôm xác vua mà khóc. Long-Đĩnh khen là trung, thăng chức, cho coi quân hộ-vệ. Khi có sấm rằng có người họ Lư sẽ cướp ngôi, vua truy-tầm những người họ Lư ở trong nước nhưng vẫn tin dùng Lư-Công-Uẩn. (5) Khi Long-Đĩnh băng, Đào-Cam-Mộc xui Lư-Công-Uẩn cướp ngôi, Lư-Công-Uẩn từ-chối. Nghĩ ra, có thể nói là họ Lư cũng có chút t́nh, không vội-vàng nhảy-xổ theo đề-nghị lần đầu. Lại đến hôm sau, họ Đào nói thêm lúc bấy-giờ Lư-Công-Uẩn mới chịu; phải chờ 24 tiếng, lại được thêm các quan khác cùng suy-tôn, lúc đó Lư-Công-Uẩn mới chép-miệng đưa-chân theo. Những chuyện này, hiển-nhiên, chỉ được truyền-tụng dưới đời Lư-Thái-tổ, chưa có thể nghe thấy thời nhà Lê. (6) Sư Vạn-Hạnh được nhà Lê quư-trọng. Khi đi đánh quân Tống, Lê-Đại-hành cho mời (Sư) vào triều để hỏi về sự được-thua. Ông đoán trong ba bảy ngày, quân-giặc tất-nhiên phải lui. Rồi sau quả đúng như nhời ông nói. (7) Vậy mà đến đời con Lê-Đại-hành, Sư lại mưu việc phế nhà Lê. Tục-truyền rằng lúc đó có cây bị sét đánh, trong thân có câu sấm : Thụ căn điểu điểu, Mộc biểu thanh thanh Hoà đao mộc lạc, Thập bát tử thành…
Dịch nghĩa là Gốc cây thăm-thẳm, Ngọn cây xanh xanh Cây hoa đao rụng, Mưới tám hạt thành…
Sư Vạn-Hạnh giảng là : Gốc (là vua) th́ (yểu) yếu, Ngọn (bề-tôi) lại (thanh) thịnh Hoà-đao-mộc (ba chữ ghép lại là chữ) Lê sẽ mất (lạc), Thập-bát-tử (ba chữ ghép lại thành chữ ) Lư sẽ lập (thành)
Ư nói chung là nhà vua th́ non-yểu, bề-tôi lại cường-thịnh, nhà Lê tất mất, nhà Lư tất nổi lên. (8)
Tư-tưởng soán-nghịch
Sư lại c̣n đi xa hơn việc giảng sấm. Sư ôm-ấp tư-tưởng soán-nghịch. Sư xúi Lư-Công-Uẩn làm việc thoán-đạt. Thành ra tu-hành mà c̣n nặng-nợ việc đời. (9) Điện-tiền Chỉ-huy-sứ, phụ-trách an-ninh triều-đ́nh, chỉ-huy quân cận-vệ của nhà vua, không ngăn-cản ư của sư, chỉ giấu sư về chùa cho chuyện khỏi lộ. Nghe như không hoàn-toàn ngay-thẳng trong tư-duy mặc-dù chưa lộ-liễu làm điều nghịch. Việc giảng sấm thành ra không phải là chuyện đời sau diễn-giải việc xảy ra từ trước ; mà là một phương-thức chiến-tranh tâm-lư có kèm theo một chút đe-doạ. Khiến cho chính Lê-Long-Đĩnh cũng phải lo t́m kiếm họ Lư để pḥng-ngừa. Lại chính con trai Lư-Công-Uẩn, tuổi mới hơn mười mà cũng có cái gọi là « khẩu-khí thoán-nghịch ». Thấy con trai chơi mà cứ lo về lễ-nghi, Lư-Công-Uẩn bảo con : « Con nhà tướng th́ phải lo học vơ đi chứ » . Cậu con đáp : « Tướng mà cũng có lúc Trời cho th́ phải nhận mệnh vậy. Trông như nhà Lê thay nhà Đinh đó ». (10) Thế th́ cha đỡ đầu là Sư Vạn-Hạnh và con là Phật-mă đều có ư thoán-nghịch cả. Nên loạn nói là ở trong cả nhà này mà ra cả. Khác xa với Trần-Hưng-đạo đuổi mắng con nhỏ không « chuyên-chính trung-quân ».
Vài chuyện xầm-x́ ngoại-sử
Chính-sử ta chép là các quan suy-tôn quan Thân-vệ lên ngôi. Lại có sách viết là việc có tŕnh cho Thái-hậu, tức là vợ Lê-Long-Đĩnh, mẹ của con-nít đáng lẽ phải nối ngôi cha. (11) Sử Tàu ghi là Lư-Công-Uẩn chiếm ngôi của con vua mới băng. Dă-sử ghi là Lê-Long-Đĩnh bị ám-sát. Đấy là lời Ngô-gia b́nh sử. Lư-Thái-tổ rất căm-phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai-minh-vương, nhân lúc Khai-minh-vương bệnh-tật, sai người vào đầu-độc giết đi rồi dấu kín việc đó, nên sử không được chép ? (12) Lại có sách cũng ghi là em Long-Đĩnh tranh-dành nhưng bị Lư-Công-Uẩn đánh bại. Chí-Trung (Vua Lê-Long-Đĩnh) mất, con đương nhỏ, em là Minh-Vĩnh (13)tranh ngôi, Công-Uẩn đuổi và giết Minh-Vĩnh, tự lĩnh công-việc Giao-châu. (Tin tới triều-đ́nh nhàTống) Tống-Chân-tông nói :« Chí-trung bất-nghĩa mà được ngôi, nay Công -Uẩn bắt chước làm bậy, lại càng đáng ghét ». (14) Nhưng những việc này không được ghi vào chính-sử. Câu hỏi là có phải v́ chịu ảnh-hưởng thế-lực của triều-đ́nh Lư hay không ?
Xét lại các chuyện bêu xấu Lê-Long-đĩnh
Đưa ra vần-đề dùng vạc-dầu chuồng cọp th́ đời Đinh đă có ; hoạ chăng là Long-Đĩnh dùng nhiều hơn chăng ? Cũng nghe nói vua hiếu sắc ; khi em là Minh-Xưởng đi sanh Tàu, lúc về, có mang theo một phụ-nữ Tống, gọi là Tiêu-thị, vua thu-nạp làm cung-nhân. Có gọi là hiếu-sắc hay không nếu so với các vua trước sau ? Vua Đinh, vua Lê lập mỗi người năm hoàng-hậu ; vua Lê lại lấy hoàng-hậu cũ của vua Đinh ; Lư-Thái-tổ lúc đầu lập sáu, sau lập thêm ba nữa. ĐNQSDC ghi là Sóng t́nh ch́m-nổi ái-hà Chín ngôi hoàng-hậu, phép nhà cũng sai. (15)
Long-Đĩnh chỉ lập có bốn hoàng-hậu Lại c̣n việc gọi tên là Ngoạ-triều. ĐVSKTT ghi vua băng ở tẩm-điện, gọi là Ngoại-triều, v́ vua mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi chầu (Dă-sử chép : vua say-đắm tửu-sắc phát ra bệnh trĩ). (16) Đại-Việt Sử-lược (ĐVSL) chép tương-tự : Vua qua đời tại pḥng ngủ trong viện. Hiệu là Ngoại-triều, v́ vua có bệnh trĩ phải nằm để thị triều. (17) Hiệu hay miếu-hiệu hay thuỵ-hiệu, là tên-hiệu dâng lên sau khi vua băng, dùng làm tên thờ. Thường-thường lấy cái hay cái đẹp của vua mới mất mà diễn-tả. Việc nhà Lư đặt tên Ngoạ-triều như vậy nói lên cái ư bêu-riễu chẳng tốt-lành của triều-đại sau. (18) Các sử khác như An-nam chí-lược, Việt-sử Tiêu-án không dùng tên Ngoạ-triều mà gọi tên Long-Đĩnh hay Chí-Trung. C̣n giải-thích say-đắm tửu-sắc mà sinh ra bệnh trĩ th́ không có căn-bản y-học vững-chăi. Lại bảo phải nằm mà coi chầu, nếu có, th́ chỉ là trong giai-đoạn cấp-tính của bệnh trĩ, cái đó dễ hiểu. Nhưng nh́n lại cuộc đời sôi-động của vua, từ thời c̣n làm hoàng-tử cho đến khi lên làm vua th́ cái việc nằm-dài-coi-chầu cũng không có căn-bản lịch-sử. Vua đích-thân cầm quân đi đánh giặc từ lúc làm hoàng-tử cho đến sau khi lên làm vua, như đánh trại Phù-lan, châu Phong và Ái-châu (1005), châu Đô-lương, Vị-long rồi Hoan-châu và Thiên-liễu (1008), Hoan-đuờng và Thạch-hà ngay ba tháng trước khi mất (1009) ; vậy sao lại gọi là nằm coi chầu ? Nói chung th́ cho tới đây, các anh-hùng lập-nghiệp chỉ được một thời-gian trên dưới mươi năm, cho đến Lê-Hoàn truyền ngôi được đời con tổng-cộng ba chục năm đă là tiến-bộ hơn trước rồi. Phải chờ đến nhà Lư, lúc đó thanh-b́nh lâu hơn, việc nước có kỷ-cương hơn, nên mới thực-sự lập được ḍng-họ giữ ngôi được 8, 9 đời, hơn hai-trăm năm. Việc nhà Lư soán-nghiệp nhà Lê cũng là thường-t́nh của nước ta vào thời-điểm chưa ổn-định đó. Việc « nói xấu » vua Long-Đĩnh chỉ là một mánh-khoé chính-trị để giải-thích sự-việc với lư-do mệnh trời thay-đổi. Ngày nay, đọc lại sử, nên gạt ra những chuyện xầm-x́ đời sau gán cho đời trước, thực-sự đó không phải là lịch-sử mà chỉ là một lại tản-mạn khi trà-dư-tửu-hậu |
||||
Ghi-chú 1- Một cách để phân-chia các giai-đoạn lịch-sử nước ta là : a- thời Tiền-sử b- thời Bắc-thuộc c- thời Độc-lập và Thống-nhất : 939-1527. d- thời Độc-lập và Phân-chia : 1527-1802 e- thời Cận-đại
2- Lê-Ngô-Cát & Phạm-Đ́nh-Tuư : Đại-nam Quốc-sử Diễn-ca, (ĐNQSDC) Hoàng-Xuân-Hăn tựa và dẫn, Trường-Thi, Sài-g̣n, bản in lần thứ ba, Xuân-thư in lại, TX 1976. Các câu 331-2 ; 1073-4 ; 807-12.
3- Đại-Việt Sử-kư Toàn-thư (ĐVSKTT) bản-kỷ, I : Kỷ-dậu. Nhiều sử chép là Quách-ngang. Đại-Việt Sử-lược (ĐVSL) ghi là đức Tăng-thống Quách-măo.
4- ĐVSKTT, Kỷ-dậu, 1009.
5- Có lần vua ăn quả khế thấy có hột mận, lại càng tin lời sấm, ngầm t́m người họ Lư để hại nhưng vẫn một ḷng tin vị Điện-tiền Chỉ-huy-sứ Lư-Công-Uẩn mà ông cho là người trung-tín, dựa theo cách cư-xử khi vua Trung-tôn bị hại : Lư-Công-Uẩn ôm xác vua mà khóc trong khi các quan khác tránh né.
6- Những chuyện về Sư Vạn-Hạnh và Đào-Cam-Mộc xúi Lư-Công-Uẫn lẽ-dĩ-nhiên chỉ phổ-biến sau khi cuộc đảo-chánh cung-đ́nh đă xong. Tuy-nhiên, các câu sấm được truyền-khẩu từ trước cho nên vua mới lo diệt người họ Lư. Ngay cả tên Ngoạ-triều cũng chỉ xuất-hiện dưới đời Lư chứ chắc không ai dám dùng tên bêu-riễu đó khi vua c̣n sống và cầm quyền.
7- Ngô-Tất-Tố : Văn-học đời Lư (VHĐL), Xuân-thu in lại tại Hoa-kỳ, k.năm. tr.28-9
8- Lời giảng ghi trong các cuốn sử ĐVSKTT, Khâm-định Việt-sử Thông-giám Cương-mục (KĐĐVTGCM), Đại-Việt Sử-lược (ĐVSL) và Việt-sử Tiêu-án (VSTA) đều ghi-chép với vài dị-biệt nhưng đại-ư giống nhau như trong bài.
9- Lư-Công-Uẫn nghe xong th́ đẹp ḷng nhưng sợ lộ chuyện nên đem Sư về giấu tại chùa Tiêu-sơn. Sau khi lên ngôi, đưa về làm Quốc-sư. Sư mất năm thứ chín đời vua Lư-Thái-tổ (1018).
10- KĐVSTGCM, Chính biên, Q.II.
11- VSTA, Khai-minh-vương : Rồi (Đào-Can-Mộc) mang việc ấy (suy-tôn Lư-Công-Uẩn) tâu với Thái-hậu, cùng phù Công-Uẩn lên điện, lên ngôi vua…
12- Bs Hồ-Đắc-Duy : Bản án của Ngoạ-triều Hoàng-đế, trên diện-đàn chimviet.free.fr, trích-dẫn Đại-Việt Sử-kư, tr.185.
13- Vua sai em sang Tầu xin Kinh ; tên nhiều bộ sử ghi là Minh-Xưởng ; An-nam Chí-lược ghi là Lê Minh-Vĩnh . (q. Đệ-thập-nhất)
14- An-Nam Chí-lược, q. Đệ-thập-nhị.
15- Đại-Nam Quốc-Sử diễn-ca, câu 839-40
16- ĐVSKTT, bản kỷ, 1 ; xem chú-thích 4.
17- ĐVSL, q.1
18- Việt-điện U-linh, bản dịch của Đinh-Gia-Khánh & Trịnh-Đ́nh-Dư (sic), Văn-học, Hà-nội, 2001, tr.109 : ghi tên vua là Lê-Ngọc-Triều; bản dịch của Lê-Hữu-Mục, Khai-trí, Sài-g̣n, 1960, tr.112 : ghi Lê-Ngoạ-Triều.
Xin đọc Hậu Duệ Triều Lư Việt tại Hàn Quốc
|
||||
Tản-mạn lịch-sử I-006 NguyễnlêHiếu
Trong chương-tŕnh tản-mạn lịch-sử hôm nay, chúng ta kể chuyện nhà Trần chiếm ngôi nhà Lư; nhắc qua đến Trần-Cảnh được Lư-Chiêu-hoàng truyền ngôi, tưởng như vua đầu nhà Trần, có miếu-hiệu là Trần-Thái-Tôn. Sau đó, sẽ nói tới Trần-Thừa, miếu-hiệu Trần-Thái-Tổ; ít được nhắc đến trong chính-sử nên có nhiều người không biết đến. ![]()
Vài hiểu-biết căn-bản
Trước khi đi vào vấn-đề, xin thông qua vài hiểu-biết căn-bản về danh-hiệu các vua thời xưa và cách truyền ngôi đời Trần. Các tên Thái-tổ, Thái-tôn không phải là tên vua tự chọn mà là miếu-hiệu nghĩa là tên triều-đ́nh và vua tiếp-nối dâng-tặng sau khi vua băng. Do đó, đời Lê-Lợi chưa có Lê-Thái-tổ; ông mất, triều-đ́nh dâng miếu-hiệu là Lê-Thái-tổ, nghĩa là ông tổ lập ra ḍng-dơi vua nhà Lê. Đấy là vấn-đề danh-hiệu. (1) Về phương-thức nối ngôi, vua có thiên-mệnh; khi vua mất, thiên-mệnh chuyển sang người nối ngôi, thường-thường là một hoàng-tử. Nhà Trần xử-sự khác. Vua thấy hoàng-tử đă có-vẻ khôn-lớn th́ truyền-ngôi cho rồi lui về làm Thượng-hoàng; vẫn nắm quyền-hành. Khi vua con lêu-lổng, Thượng-hoàng gọi các quan, mang cả triều-đ́nh về. C̣n doạ thay con khác làm vua. (2) Vậy là Thượng-hoàng vẫn c̣n thiên-mệnh và vua con, trên thực-tế, là vua tập-sự, một thứ hoàng-thái-tử “có ngai nhưng thiên-mệnh chưa tới”. Nói cách khác, đời chính-trị một vua nhà Trần có ba thời: thời vua tập-sự chưa có quyền (khi c̣n Thượng-hoàng chặn trước), thời làm vua thực khi Thượng băng và thời ḿnh lên Thượng-hoàng (có vua con nhưng vẫn nắm quyền). Ấy v́ thế mà Thái-thượng nhà Trần xưng là Hoàng —Hoàng trong tiếng Hoàng-đế, kẻ có thiên-mệnh — khác với Vương (do một Hoàng-đế bổ-nhiệm). (3) |
||
Trần-Thái-tôn Cảnh
Cảnh lấy Chiêu-thánh rồi, theo “chính-sử”, được Chiêu-hoàng nhường ngôi cho. Xưng là Thiện-hoàng (vua được nhường ngôi) sau đổi ra Văn-hoàng. Cảnh và Chiêu-hoàng là anh-em con-bác-con-cô, cha Cảnh và mẹ Chiêu-hoàng là anh-em ruột. (4) Chính-sử ghi là Trần-thị, vợ Huệ-tông và mẹ Chiêu-thánh, tư-thông với em họ là Trần-thủ-Độ; đẩy được vua Huệ-tông bỏ ngôi ra tu tại chùa, bèn bàn mưu ở trong cung làm tờ chiếu để vua nhà Lư truyền ngôi cho nhà Trần. Trần Cảnh, vẫn theo chính-sử, hạ mẹ vợ Trần-thị từ ngôi Thái-hậu nhà Lư thành Thiên-cực công-chúa rồi tác-thành cho lấy em họ là Trần-thủ-Độ. Dùng Độ làm Quốc-Thượng-phụ, tôn mẹ làm Hoàng-thái-hậu, cha làm Thái-thượng-hoàng, thay nhà vua giữ chính-quyền trong nước và trong nước có việc ǵ to lớn th́ Thượng-hoàng ở trong cung nghe lời tâu-bày để quyết-đoán. (5)
Chuyện nhà họ Trần
Ông Trần-Cảnh: tên Trần-Lư, gốc đánh cá, nhà giàu có, nhiều người theo; gặp thời loạn, có bè-đảng chân-tay tạo thế-lực tại địa-phương. Vợ họ Tô, nhà cũng có chút thế-lực; em vợ là Tô-trung-Từ cũng có bày-tôi theo pḥ. Hai họ Trần và Tô có liên-kết. Năm Kỷ-tỵ (1209), triều-đ́nh gặp loạn. (6) Vua lánh kinh-đô. Thái-tử Sảm về Hải-ấp, được Trần-Thừa tôn làm Thắng-vương; Sảm phong Trần-Thừa làm Minh-tụ, lấy em vợ Thừa là Tô-trung-Từ làm Điện-tiền chỉ-huy-sứ, (7) lập con gái thứ hai của Thừa làm Nguyên-phi. Khi triều-đ́nh ổn-định lại, vương-tử Sảm được Tô-trung-Từ là chú Trần-thị đưa về kinh-đô trong khi Trần-thị về nhà ḿnh lánh-nạn. Rồi Trần-Lư bị giặc giết, quyền sang tay con thứ là Trần-tự-Khánh, có con trai lớn là Trần-Thừa cùng phụ-giúp. Cuối năm Canh-ngọ (1210), vua băng. Sảm nối ngôi, đem thuyền rồng mấy lần xin đón vợ nhưng Trần-tự-Khánh bắt-bí, không cho. Vua đón-mời ba lần Khánh mới cho em gái về. (8) Trong khi đó, Tô-trung-Từ thao-túng ở giữa triều-đ́nh: giết thái-uư nhà Lư là Đỗ-kính-Tu, giết Quan-nội-hầu là Đỗ-thế-Quy. (9) Vua lập Trần-thị làm nguyên-phi, nhận cậu vợ Tô-trung-Từ làm Thái-úy đứng đầu trong triều, phong anh vợ là Trần-tự-Khánh làm Chương-thành-hầu ở bên ngoài xa. Sau Tô-trung-Từ lấy vợ người nên bị giết. Trần-tự-Khánh cùng anh là Thừa và em họ là Trần-thủ-Độ mấy lần mang quân xâm-nhập kinh-đô, vào đến cả cung-điện nên Thái-hậu và vua phải e-sợ. (10) Thái-hậu ghét luôn nguyên-phi vốn là em Khánh, hành-hạ khổ-sở và mưu độc nguyên-phi. (11) Mùa đông năm Bính-tư (1216), vua thương vợ, theo nguyên-phi chạy sang trú bên Khánh. Từ đó, họ Trần dần-dần nắm binh-quyền. Trần-thị lập làm hoàng-hậu. Hai anh nắm binh-quyền, Trần-tự-Khánh thành Thái-uư phụ-chính, Trần-Thừa làm Nội-thị phán-thủ, tiến-phong tước Liệt-hầu. Thái-uư Khánh những lúc triều-bái nhà vua th́ không phải xưng tên, Nội-thị Phán-thử Thừa khi có lễ-tiệc lớn được cho ngồi dự ở điện Thiên-an. (12) Sau mười mấy năm kể từ khi pḥ thái-tử Sảm (năm 1210), Trần-tự-Khánh chưa kịp làm việc thoán-đạt th́ mất (cuối năm 1223). Thừa lên thay làm Phụ-quốc Thái-uư, vẫn khi vào chầu không xưng tên. (13) Nhưng kể từ đây, sự-việc diễn-tiến mau hơn. Không đầy một năm, vua truyền-ngôi cho Chiêu-Thánh, lúc đó lên 7, rồi xuất-gia lên chùa tu. Năm sau nữa, Ất-dậu (1225), tháng mười, tuyển con-em quan-viên vào hầu Chiêu-hoàng; tháng mười-một, Thủ-Độ loan-báo “Bệ-hạ đă có chồng”; ngày 21 tháng ấy, có chiếu truyền ngôi; ngày mồng một tháng chạp, Trần-Cảnh lên ngôi. Mọi việc xảy ra trong không đầy hai tháng: bé gái gặp rồi lấy chồng và nhà Trần thay nhà Lư. (14)
Trần Thừa
Chính-sử quy việc thoán-đạt cho Trần-thủ-Độ, Điện-tiền chỉ-huy-sứ v́ ông là chỉ-huy quân-đội, canh hoàng-cung lại là chú Trần-Cảnh. Sự thực, đây chỉ là một dàn-xếp gia-đ́nh, nữ-chúa truyền ngôi cho chồng. Thủ-Độ có sự giúp-sức bàn-mưu của mẹ Chiêu-hoàng lúc đó đă thôi vua Huệ-tông và có t́nh-ư với Thủ-Độ. Vậy đâu có cần đến vũ-lực như các chỉ-huy quân-đội thời trước cướp ngôi của ấu-chúa cho chính ḿnh. (15) Đến đây, nên xét lại vai tṛ của Trần-Thừa, cha Trần-Cảnh, lúc đó là Phụ-quốc Thái-uư, người nắm quyền chính-trị và là người sau này trực-tiếp hưởng lợi trong việc thoán-đạt. Ông giữ vai-tṛ kín-đáo, sau thành Trần-Thái-tổ, việc mà nhiều người không biết đến, kể cả vua Tự-Đức là người thích đọc và b́nh về sử Việt trong cuốn Khâm-Định cương-mục. (16) Trần Thừa tinh-hoa không xuất-phát ra ngoài như em là Khánh; cho nên khi cha bị giết, Khánh nắm quyền trong nhà cai-quản quân-gia. Nhưng Thừa không phải là người ngồi yên thụ-động mà trái lại, khá sinh-động. Khi Trần-thị về kinh-đô th́ vua dùng cậu vợ là Tô-trung-Từ làm thái-uư. Họ Tô không hoàn-toàn tin-cậy các cháu ngoại. Hai bên hơi gườm nhau. (17) Năm Tân-mùi (1211), Từ và con rể Từ bị giết, Thừa muốn thu-phục tả-hữu của Từ, đặc-biệt là Nguyễn-Trinh, không được bèn xui âm-mưu giết Trinh. (18) Nhiều lần, Khánh xâm-phạm kinh-đô chống vua, Thừa có tham-dự. Năm Giáp-tuất (1214), Thừa và Khánh đánh hữu-ngạn sông Lô, Thủ-Độ đánh mặt tả-ngạn. Quân nhà vua thua, phe Trần chiếm được thuyền rồng. Cuối năm ấy, quân Trần đi cướp lấy các vật trong phủ nhà vua. Rồi lại đốt phá gần hết cung-thất và nhà dân trong kinh-thành. (19) Năm Bính-tư (1216), vua và vợ sợ Thái-hậu phải về theo Khánh. Khánh thành Thái-uư coi việc chính-trị ngoài triều-đ́nh c̣n Thừa làm Nội-thị Phán-thủ coi sát việc trong cung-điện nhà vua. Con lớn Thừa là Liễu làm Quan-nội-thủ. Con trai Khánh tước vương. Hai anh-em họ Trần xếp-đặt gia-đ́nh kiểm-soát triều-đ́nh nhà Lư. (20) Năm Đinh-sửu (1217), Thừa chia quân sáu đạo đánh Nguyễn Nộn (lúc đó theo pḥ Thái-hậu và giữ công-chúa) trong khi Khánh đi đánh Châu-na, Phong-châu. (21) Năm Mậu-dần (1218), Thừa lại mang quân đi Bắc-giang đánh Nguyễn-Nộn, mở đê gây lụt, quan-quân theo thế-nước mà đánh, thắng lớn, bắt được vợ con Nộn. (22) Năm Canh-th́n (1220), Thừa cùng Khánh mang quân theo đường Quy-hoá đánh Hà Cao. Cao cùng vợ con tự-tử. (23) Tháng chạp Quư-mùi (1223), Khánh chết; tháng sau, Thừa thay làm Thái-uư. Tới đây, các sách sử chép khác nhau. Đại-Việt Sử-kư Toàn-thư và Khâm-định Việt-sử Thông-giám Cương-mục chép tháng giêng năm Giáp-thân, tức Kiến-giai thứ 14 (1224), Thừa làm Thái-uư; tháng 10 cùng năm Giáp-thân, vua truyền ngôi cho Chiêu-Thánh. Tháng 10 năm sau, Ất-dậu (1225), tuyển con-em các quan trong đó có Trần-Cảnh vào hầu Chiêu-hoàng, tháng 12 truyền ngôi cho Trần-Cảnh. Chiêu-hoàng làm vua được 13 tháng, đám cưới Chiêu-hoàng và Trần-cảnh dàn-xếp trong không đầy hai tháng. Đại-Việt Sử-lược viết từ đời Trần ghi khác. Thừa làm Thái-uư cả năm Giáp-thân; đầu Ất-dậu đánh Nghệ-An. Đến tháng 6 vua mới truyền ngôi cho Chiêu-Thánh, rồi 5 tháng sau, tháng 12 Ất-dậu, các quan quản-lănh thuyền-rồng, chuẩn-bị pháp-giá đi đón Thừa về làm Thái-thượng cho con là Trần-Cảnh lên làm vua thay vợ; sự-việc xảy ra trong ṿng dăm tháng.
So-sánh Thừa, Khánh và Thủ-độ
Khánh xuất-sắc, năng-động, thích đứng mũi, làm chỉ-huy, chức Thái-uư. Khánh lộ-liễu giỡn chơi với tả-hữu ngụ-ư sẽ cướp ngôi nhưng chưa kịp làm việc dữ. Năm Mậu-dần (1218), một hôm ngồi nghỉ ở trạm Nỗ, Khánh ngang-nhiên nói với tả-hữu: “Như ta làm vua, bọn các ông xem ta bắn cái cành cây nhỏ kia một phát th́ trúng”. Rồi quả-nhiên bắn trúng. Quân tướng vừa sợ vừa phục. (24) Thủ-Độ, ít học, chuyên việc binh-bị, nhiệm-vụ thiên-lôi, lo về an-ninh vương-quốc. Ông công-nhận không biết chữ-nghĩa ǵ, c̣n phải rong-ruổi đông-tây, chịu làm phận chó-săn nhận việc dữ như toan-tính giết Liễu khi Liễu nổi loạn; ấy là v́ lo hậu-vận nhà Trần. (25) Thừa kín-đáo; có lúc hành quân bên ngoài, nhưng chức-vụ chính là Nội-thị Phán-thủ, kiểm-soát việc kín trong cung-điện. Khánh làm thái-úy cả chục năm, nhà Lư vẫn c̣n. Thừa lên thay Khánh làm thái-uư được có hơn một năm mà nhà Lư mất, nhà Trần lập. Điểm quan-trọng là sử viết đời Trần ghi vua Huệ-tông xuất-gia tháng mười năm trước, Chiêu-Thánh lên ngôi tháng sáu năm sau, đưa Trần-Cảnh vào tháng mười, Cảnh lên ngôi tháng mười-hai. (26) Tấn bi-kịch hợp-thức-hoá việc đổi trào diễn ra trong dăm tháng: từ tháng sáu đến hết tháng mười một. C̣n trong khoảng thời-gian trước đó, vua đă xuất-gia, Chiêu-thánh c̣n nhỏ, mẹ tư-thông với Thủ-Độ, bác là Thái-sư Thừa nắm quyền-hành xử-sự chắc như là vua thật! Sử ghi là mẹ Chiêu-hoàng bàn với Thủ-Độ để dàn-xếp. Nhưng có-lẽ chính là bàn với anh là Thái-sư Thừa rồi cho Thủ-Độ nhận vai bạc-ác? Nhà sử-học Lê-văn-Lân tại Hà-nội cho hay là sách An-nam tức-sự của sứ-giả nhà Nguyên ghi Thừa đă đoạt ngôi nhà Lư; và dẫn thêm một bài minh trên một quả chuông ở Bạch-hạc có ghi vua Thái-tông là đời vua thứ hai của nhà Trần. (27) Trần-Thái-tổ Triều-đ́nh tôn Thủ-Độ làm Quốc-phụ; Thủ-Độ chỉ muốn giữ phần binh-bị, đề-nghị Thừa làm Thượng-hoàng tạm coi giữ quốc-chính, đợi một vài năm nữa nước nhà thống-nhất, sẽ lại giao trả quyền-chính cho vua, cùng hưởng-phúc thanh-b́nh. Bấy giờ Trần-Thừa mới xưng là Thượng-hoàng cầm chính-quyền. Năm 1231, Thượng-hoàng xuống chiếu rằng trong nước, hễ chỗ nào có đ́nh-trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ. Ấy là v́ Thượng-hoàng khi hàn-vi từng nghỉ ở đó, có một nhà sư bảo rằng: “Người trẻ tuổi này ngày sau sẽ đại-quư”. Nói xong th́ biến mất. Đến nay, vua lấy được thiên-hạ mới có lệnh này. (28) Năm 1234, Thượng-hoàng băng; táng ở Thọ-lăng; miếu-hiệu Huy-tông. Năm 1248, đổi miếu-hiệu của Huy-tông, gọi là Thái-tổ. (29) Cốt chuyện hôm nay là trên thực-tế — cũng như là có bằng-cớ hiển-nhiên nhưng “chính-sử” không ghi — vua đầu nhà Trần là Thừa, miếu-hiệu Thái-tổ chứ không phải là Cảnh, tức Thái-tôn, “đời vua thứ hai nhà Trần”. C̣n cái việc thay gịng-họ, đổi vương-triều trong lịch-sử cũng chỉ là thường-t́nh theo lẽ thịnh-suy, có chăng chỉ là chuyện trà-dư tửu-hậu. |
||
Ghi-chú
1- Theo lệ trong các vương-triều xưa, vua mất gọi là Đại-hành Hoàng-đế. Khi táng, đặt miếu-hiệu. Hai vua nhà Tiền-Lê không có miếu-hiệu nên Lê-Hoàn gọi là Đại-hành. Hiển-nhiên, Ngoạ-triều không phải là tên tự-xưng hay miếu-hiệu; mà là tên riễu do nhà Lư đặt cho. Các đời, Lư- Trần, Hậu-Lê thường chọn Thái-tổ, Thái-tông v.v.
2- Năm Quư-tỵ (1293), Nhân-tông truyền ngôi cho con là Thái-tử Thuyên (tức là Anh-tông). Một lần vua quá say, Thượng-hoàng đến, các quan ra đón mà vua không biết; Thượng-hoàng hạ chiếu cho triều-đ́nh về nghe lệnh tại Thiên-trường. Khi tỉnh dậy, vua hốt-hoảng chạy đuổi theo; giữa đường gặp được người học-tṛ, nhờ làm tờ biểu tạ-tội rồi mang theo về phủ Thiên-trường, hai người quỳ tại sân phủ. Sau Thượng-hoàng răn-dạy một hồi, nói ư rằng Thượng-hoàng có nhiều con có thể thay ở ngai vàng. Ngô-sỹ-Liên phê-b́nh: “Vua kế-vị không khác ǵ hoàng-thái-tử, như thế th́ có hợp đạo không?” (Đại-Việt sử-kư Toàn-thư (ĐVSKTT), Mậu-ngọ, 1528)
3- Theo quan-niệm và truyền-thống phong-kiến, có thiên-mệnh mới thành Hoàng-đế, chỉ thay Thượng-đế mà hành-đạo trị thiên-hạ. Hoàng-đế phong Vương cho chư-hầu, cai-trị một phương; Vương lệ-thuộc vào Hoàng-đế. Các vua ta, đối với Tàu thi xin lập làm Vương, nhưng trong nước, xưng Hoàng-đế. Một thí-dụ là Đinh-tiên-Hoàng, xưng đế, phong cho con là Đinh-Liễn làm Nam-Việt-vương, coi việc nước.
4- Trần-Lư có con là Trần-Thừa, Trần tự-Khánh, Trần-thị-Dung (gả cho Thái-tử Sảm, vua Lư Huệ-tông) và một số con gái nữa, trong đó có Trần-tam-nương (gả cho tướng Nguyễn Đường; sau Đường chết, lại gả cho Hầu tước Đoàn-văn-Lôi). Dung lấy Huệ-tông, sanh ra công-chúa Thuận-thiên và công-chúa Chiêu-thánh. Gả cho hai con trai của Trần Thừa, là Liễn và Cảnh. Vậy là hai con trai của anh lấy hai con gái của em gái.
5- Khâm-định Việt-sử Thông-giám Cương-mục (KĐVSCM), Chính-biên, Q.VI, năm Ất-dậu. Trần-Thủ-Độ là cháu gọi Trần-Thừa là bác, vậy là em họ Hoàng-hậu Trần-thị-Dung. Hai người tư-thông với nhau. Sau khi đẩy vua Huệ-tông xuất-gia đi tu, Thái-hậu Dung dàn-xếp cho con gái ḿnh lấy cháu trai Cảnh. Khi Cảnh làm vua, cho mẹ vợ lấy Thủ-Độ, lập cha làm Thượng-hoàng.
6- Kỷ-tị (1209) : Vua giết Phạm-bỉnh-Gi. Thủ-hạ của Gi là Quách-Bối mang quân vào cung, dùng xe của vua chở xác chủ rồi bắt hoàng-tử Sảm về Hải-ấp. Sau Trần-Thừa đón hoàng-tử về Lỵ-Nhơn lập làm vua. Trong khi đó, vua cũng chạy chốn.
7- Minh-tụ : Theo Lịch-triều hiến-chương của Phan-huy-Chú, ‘‘Minh-tự là một tước để phong cho những người có công, theo lời chua’’, KĐVSTGCM, chính-biên, Q.V, Canh-ngọ-1150. Điện-tiền Chỉ-huy-sứ : Chức quan trông nom binh-lính trực ban ở trước điện nhà vua (chú-thích trong KĐVSTGCM, Chính-biên, Q.II, năm Kỷ-dậu-1009).
8- Năm Canh-ngọ, tháng 11, liệm vua Cao-tông. Vua sai đón Trần-thị, Khánh không cho. Mùa xuân Tân-mùi-1211, (bản-dịch ghi nhầm là Tân-tỵ) tháng giêng, vua lại cho đi đón Trần-thị, Khánh vẫn chưa cho. Lần thứ ba đi đón, Khánh mới sai Phùng-tá-Chu đưa về. Đại-Việt sử lược, (ĐVSL) Q.III, năm Tân-tỵ-1211
9- Tô-trung-Từ (có sách ghi là Tự) bị nhiều người trong triều-đ́nh chống-đối. Đỗ-kính-Tu là Thái-uư do Huệ-tông lập tháng 11 năm Canh-ngọ (1210); sang tháng chạp, Từ d́m xuống nước cho chết ở bến Đại-thông. Quan nội-hầu là Đỗ-thế-Quy chốn dưới linh-cữu vua Cao-tông, bị bọn Từ bắt, làm tội cho đến chết tại chợ Đông. Mấy người này mưu diệt họ Tô nhưng thất-bại. Cuối năm, vua cho Từ làm Chiêu-thảo đại-sứ, sang tháng 3 năm sau, Tân-mùi (1211), làm Thái-uư. Đến tháng 6, Từ bị Quan-nội-hầu Vương-Thượng giết.
10- Cuối năm Kỷ-tị (1209), khi Cao-tông mất, Khánh mang quân về đóng Tế-giang, nói y định đi viếng tang cùng với Tô-trung-Từ. Đến cuối năm sau, Canh-ngọ (1210), sau khi Từ chết, Khánh lại mang quân đến Tế-giang. Thái-hậu và vua e-sợ. Vua lánh lên Thái-nguyên. Sau sang Bắc-giang, Khánh nhập kinh-sư cho tướng đi đón vua về kinh. Vua sợ lại chạy đi Lạng-châu. Năm Giáp-tuất (1214) chia quân đánh kinh-sư. Rồi vào cướp-phá cung-điện nhà vua. ĐVSL, Q.III, Canh-ngọ (1210)-Ất-hợi(1215).
11- Thái-hậu là người cực-ác, luôn-luôn lo bảo-vệ vua. Để tránh việc Khánh có thể cải-lập vua khác, một đêm bà cho giết Nhân-quốc-vương và hai vương-tử khác. Bà rất nghi-ngờ nguyên-phi Trần-thị vốn là em Khánh, nên xúi vua giáng nguyên-phi xuống làm ngự-nữ. Thái-hậu chỉ phu-nhân mà nói là bè-đảng của giặc…bỏ thuốc độc vào món ăn của phu-nhân ; mỗi bưă ăn, vua chia cho phu-nhân một nửa…Thái-hậu lại sai người cầm chén thuốc độc bắt phu-nhân phải chết. Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu-nhân lẻn đi đến chỗ quân của Tự-Khánh. ĐVSKTT Bản-kỷ, Q.IV, Bính-tư (1216)
12- ĐVSL, Q.III, Bính-tư (1216)
13- ĐVSKTT, Bản-kỷ, Q.IV, Quư-mùi (1223). Lời chua trong KĐVSTGCM giải-thích : Phụ-quốc Thái-uư : theo sách Lĩnh-ngoại-đại-đáp của Chu-khứ-phi, viên quan đứng đầu hàng các quan của An-nam gọi là Phụ-quốc-Thái-uư, cũng như Tể-tướng vậy.
14- Ất-dậu (1225) Tháng 10, dùng Trần-Cảnh làm Nội-thị chính-thủ. Tháng 12, Trần-Cảnh lên ngôi hoàng-đế. ĐVSKTT ghi ngày 1 tháng chạp. (KĐVSTGCM ghi là ngày 21 tháng chạp). Tính ra không đầy hai tháng.
15- Lê-Hoàn là Thập-đạo tướng-quân, Lư-Công-Uẩn là Điện-tiền Chỉ-huy-sứ, cả hai cùng là chỉ-huy quân-đội, phần nào dựa vào vũ-lực để soán ngôi.
16- Vua Tự-đức có nhiều lời phê trong cuốn KĐVSTGCM ; về chuyện nhà Trần thay nhà Lư, vua không biết Trần-Thừa có miếu-hiệu Trần-Thái-tổ : Thực là việc lạ, suốt ngh́n xưa chưa hề có…Dầu chẳng mượn danh-nghĩa là « bệ-hạ có chồng », thiên-hạ thế-nào chắc cũng về tay họ Trần. Họ Trần lấy được nước, đều là nhờ công-sức Thủ-Độ, cũng như vua Thuận-trị nhà Thanh với Đa-nhĩ-cổn, chứ Trần-Thái-tông có ǵ đáng khen đâu ? Cho nên nhà Trần không có miếu-hiệu là Trần-Thái-tổ.
17- Khi vua Cao-tông mất (1209), Trần-tự-Khánh mang quân về Tế-giang, tính rủ cậu là Tô-trung-Từ cùng đi viếng tang. Từ nghi-ngờ Khánh hai ḷng. Khánh bèn kép quân về. Sau Từ nắm được triều-đ́nh nhưng Khánh ở bên ngoài, hai họ Trần và Tô không hợp-tác.
18- Thái-uư Từ ban đêm sang Gia-lâm tư-thông với công-chúa Thiên-cực (người khác, không phải là Thái-hậu Trần-thị sau này cũng gọi là công-chúa Thiên-cực rồi lấy Thủ-Độ) bị chồng của công chúa là Vương-Thượng giết. Con rể của Từ cũng bị Nguyễn Trinh, một tướng của Từ giết để chiếm vợ là Tô-thị (em họ Thừa). Thừa dụ Trinh về hàng, Trinh không theo nên Thừa âm-mưu xui Tô-thị giết.
19- ĐVSL, Q.III, Giáp-tuất (1214)
20- sđd, Q.III, Bính-tư (1216). Tháng chạp, phong Liễn làm Quan-nội-hầu. Lúc đó, Thừa 33 tuổi ; Liễu có thể khoảng trên-dưới mười tuổi ? Sau này lấy Thuận-thiên công-chúa, lúc đó mới sinh được mấy tháng. Sang năm sau Cảnh rồi Chiêu-thánh mới sinh (cuối 1217, đầu 1218).
21- sđd, Q.III, Đinh-sửu (1217) : Mùa hạ, tháng 4, Thái-tổ chia quân ra làm sáu đạo để đánh Nguyễn-Nộn.
22- sđd, Q.III, Mậu-dần (1218) : Thái-tổ ta lănh các đạo binh bao vây Nguyễn-Nộn tại Bắc-giang
23- sđd, Q.III, Canh-th́n (1220)
24- sđd, Q.III, Mậu-dần (1218)
25- Khi Thái-tôn lấy Thuận-thiên, vợ của Liễu v́ đang có bầu, Liễu nổi loạn ; song yếu-thế, phải sang thuyền nhỏ gặp Thái-tôn xin hàng. Thủ-Độ nghe tin, mang kiếm sang thuyền đ̣i giết nhưng Thái-tôn lấy ḿnh che, xin tha. Thủ-Độ tức lắm, ném gương xuống sông nói : «Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các ngươi thuận-nghịch như thế nào ». ĐVSKTT, Bản-kỷ, Q.IV, Ất-dậu (1125) và Q.V, Đinh-dậu (1237).
26- ĐVSKTT, Q.III, Ất-dậu (1225) ; Tháng sáu, nhà vua nhường ngôi cho con thứ hai là Công-chúa Chiêu-thánh.
27- Lê-văn-Lan : Lịch-sử Việt-nam, Hỏi & Đáp, Khoa-học và Đời sống, Hà-nội : 2004, tr.72-3.
28- ĐVSKTT, Bản-kỷ, Q.V, Thân-măo (1231)
29- ĐVSKTT, Bản-kỷ, Q.V, Giáp-ngọ (1234) và Mậu-thân (1248) đổi miếu-hiệu Huy-tông gọi là Thái-tổ ; KĐVSTGCM, Chính-biên, Q.VI : Giáp-ngọ (1234) và Mậu-thân (1248), tháng giêng mùa xuân. Truy-tôn miếu-hiệu Huy-tông làm Thái-tổ. |