Thiên Chúa Giáo

   

       Thiên Chúa Giáo

                                              ( Kitô Giáo)

 

                                Tác giả : Phạm xuân Khuyến

 

Thiên Chúa Giáo cũng gọi là Kitô Giáo v́  Đấng sáng lập  đạo là  Đức Kitô. Chữ Kitô gốc  từ chữ Christ (gốc chữ Hy Lạp) nghĩa là Đấng Thiên Sai tự trời xuống cứu độ trần Gian và ở với loài người .  Tôn giáo này  tin vào Thiên Chúa , Đấng Sáng Tạo dựng nên vũ trụ bao la. Vũ trụ này không  tự nó mà có. Nếu vũ trụ vẫn có từ thủa đời đời, th́ từ đời đời Thiên Chúa đă sáng tạo ra nó, và sự hiện hữu cũng như sự trở thành  của vũ trụ vạn vật hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa.

Trong vũ trụ, con người là một tạo vật, nhưng là một tạo vật được Thiên Chúa ưu tiên và ưu đăi nhất

 

Thiên tính củaThiên Chúa

Thiên Chúa là Đấng  tự hữu, hữu ngă, siêu việt, mầu nhiệm và tiềm ẩn mọi nơi. Kinh Thánh Cựu Ước kể rằng Thiên Chúa phán vớI ông Mô-sê từ  trongđám lửa cháy trên núi Sinai: "Ta là Đấng Tự Hữu (Ego sum qui sum)".

Thiên Chúa th́ siêu việt (transcendent ): nghĩa là phép tắc vô  cùng thông minh vô cùng, trọn tốt trọn lành, vĩnh cửu, vô biên  ở khắp mọi nơi. Thiên Chúa là  một mầu nhiệm (mystery) nghĩa là  không thể  nào hiểu được. Nếu Ngài  không là mầu nhiệm mà chúng ta hiểu được th́ Ngài sẽ không phải là Thiên Chúa  ( lời Giáo Hoàng John Paul II).  Thiên Chúa tiềm ẩn trong con người.   Kinh Thánh Cựu Ước dùng từ  ngữ  Emmanuel để  diễn tả   sự  tiềm ẩn này.  Emmanuel  nghĩa là Thiên Chúa  ở  cùng chúng ta.

 

Nhân tính của con người 

Kinh thánh  coi mỗi cá nhân là  một toàn thể duy nhất gồm vừa xác vừa hồn, tức một thân xác có linh hồn. Chữ linh hồn  trong Kinh Thánh  chỉ nguyên lư  tinh thần, linh thiêng.  Linh hồn trực tiếp do thiên Chúa dựng nên, không do huyết nhục của cha mẹ.   Linh  hồn bất tử nghĩa là không bị tiêu tan sau khi chết nhưng  sẽ được kết hợp với thân xác mới, vào ngày tận thế ngày mà toàn thể nhân loại phục sinh.

Linh hồn thiêng liêng. Dấu chỉ  về linh hồn thiêng liêng là con người  t́m kiếm Chân Thiện Mỹ về luân lư. Con người t́m tự do theo tiếng lương tâm, con người ước ao hạnh phúc vô biên. Con người thắc mắc về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Như vậy linh hồn chỉ có thể  có nguồn gốc  nơi Thiên Chúa.

Nietzche nói rằng  người là con vật  biết đánh giá trị, chỉ có người mới ư thức những giá trị vượt tầm người, chỉ có người mới thấy ḿnh  đương  là cái ḿnh  không là, hoặc không nên là, và v́ thế cần trở thành cái ḿnh chưa là nhưng đáng phải là. Người vượt xa người. Chính v́ vậy mà người phải được tôn trọng. Súc vật không biết thiện với ác là ǵ , cá lớn nuốt cá bé.  Người không vậy. Chỉ có người mới nhận ra điều ǵ đó khiến  cho ḿnh ư thức  ḿnh là kẻ có tội, v́ chỉ có  nguời mới có thể mắc tội. Chính v́ con người  có tính siêu việt, trí thông minh và tự do  mà con người biết cải tà qui chánh  và quyết thực hiện cho kỳ được.  Đành rằng tội ác phải trả theo luật nhân quả, và hiện tại con người lệ thuộc vào quá khứ, nhưng hiện tại  không chỉ là hậu quả máy móc của qúa khứ mà nó c̣n tùy thuộc  vào tính siêu việt trí thông minh và sự tự do của con người nữa. Quá khứ không quyết định hiện tại, nếu có, th́ làm sao cải thiện được.? Khuyên người làm lành lánh dữ tức là tin  vào nhân tính  của con người , tin rằng  quá khứ  thế nào đi nữa  ta vẫn có thể  thắng vượt  quá khứ  để sống tốt hơn.

 

Thiên nhân tương dữ

  Giai đoạn 1-

Thiên Chúa yêu thương , nhưng con người phản bội

NgườI Thiên Chúa Giáo tin rằng Con người là vật thụ tạo mà   được Thiên Chúa ưu đăi v́  được tạo dựng giống h́nh ảnh của Ngài  nghĩa là có tính siêu việt, trí thông minh và tự do. Theo sách "Sáng thế Kinh Thánh Cựu Ước"  th́ Thiên Chúa  đă dựng nên  thế giới tốt đẹp, nguyên tổ loài người được dựng nên  theo h́nh ảnh của Ngài nghĩa là thánh thiện  hay nói cách khác  tràn đầy thiên ân, và thánh ư Thiên Chúa  là Ngài muốn kết hợp với con người, kích động con người hiệp nhất với Ngài nhưng con người  cần bị thử thách trước.

Giả dụ  trong thời kỳ bị thử thách, con người không dùng tự do để phản bội Thiên Chúa , mà trái lại con người  xử dụng tự do  mà qui phục Thiên Chúa , yêu mến Thiên Chúa , th́ đâu  có  vấn đề sống lam lũ vất vả,  vấn đề chết

Thật sự th́ con người đă phản bội Thiên Chúa.  Tổ Tông  đă có s ự khát vọng  ngang hàng với Thiên Chúa  và tự măn về ḿnh.  Con cái cháu chắt củaTổ Tông tức cộng đồng nhân loại chẳng những đă phản bội Thiên Chúa, chống Thiên Chúa,  chối bỏ Thiên Chúa  không c̣n biết ǵ về Thiên Chúa và rồi nhim phải cái thói quen làm s d đ mt ân  sủng với Thiên  Chúa.

Hậu quả  của sự phản bội Thiên Chúa  là con người phải sống cuộc đời vất vả và sau cùng phải chết,sau khi sống  một đời sống vắn vỏi bệnh hoạn tại trần gian.

V́ thấy con người phản bội mà phải chịu những thống khổ  không được hưởng hạnh phúc với Ngài, Thiên Chúa đă hứa cứu độ con người  và sau cùng Thiên Chúa đă sai con của Ngài từ trời xuống trần gian  để  cứu độ con người.  Phúc Âm Thánh GioanTông Đồ viết (Ga 3:16) rằng Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban con một  của ḿnh để ai tin vào Ngài  th́ khỏi phải chết. Tín đồ Thiên Chúa Giáo quả quyết rằng ai tin vào Đức Giêsu con một của Thiên Chúa là Đấng Thiên Sai Cứu độ(Kitô)th́ được sống đời đời.

 

Giai đoạn 2:

Đức Giêsu Kitô là một tổng hợp của Thiên Nhân tương dữ tuyệt vời

 

Thiên

NgườI Thiên Chúa Giáo tin rằng Đức Giêsu Kitô  là con một Thiên Chúa.  Ngài có  thiên tính  của Thiên Chúa. Ngài được Thiên Chúa  sai xuống trần gian để sống giữa xă hội loài người. Từ giờ phút  ThiênThần Gabriel  truyền tin cho trinh nữ Maria  biết  ư định của Thiên Chúa. th́  Con Thiên Chúa  trở  thành bào thai  trong ḷng Trinh Nữ Maria 

Nhân

NgườI Thiên Chúa Giáo tin rằng Đức Giêsu Kitô là con người  thực sự. Ngài có  Nhântính  của con ngườiĐược cưu mang  9 tháng trong ḷng Trinh Nữ Maria , Ngài mặc xác loài người  sinh ra trong hang đá máng cỏ làm trẻ hài nhi.   Sống với  Bà Maria mẹ Ngài và Thánh Giuse Cha nuôi  (Theo luật  Do Thái thời bấy giờ  h́nh thức bên ngoài của một  gia đ́nh  tốt th́  con cái  phải có cha có mẹ đàng hoàng ) suốt 30 năm.  Sau đó, Ngài đi ra giảng  đạo, rao giảng nước Trời, rao giảng nước của Thiên Chúa.

Năm 33 tuổi, th́ Ngài tự nguyện thay thế loài người chọn cái chết trên thập giá để đền tội loài người, hoà giải giữa loài người và Thiên Chúa. Sau 3 ngày chết, Ngài ra khỏi mồ, sống lại sáng láng vinh quang,  và sau 40 ngày sống lại, Ngài đă lên trời trước mặt  11 Tông Đồ và 72 môn đệ  và rất nhiều người khác chứng kiến.

 Sự kiện Đức Giêsu là đấng Thiên Sai (Kitô),  Đấng có Thiên Tính  đồng thời có nhân tính  đă được  các ngôn sứ  thời Kinh Thánh Cựu Ước nhắc tới nhiều lần, đă được chứng minh  trong Kinh Thánh  Tân Ước  bởi 12  Tông Đồ, và 72 môn đệ của Ngài. Các Tông Đồ này, các môn đệ này đă  chấp nhận tử v́ đạo để tuyên xưng. Thiên tính của Đức Giêsu Kitô,tuyên xưng Đức Giêsu quả là Đấng Cứu Độ trần gian và nhất mựcquả quyết rằngThiên Chúa yêu thương con người  đến nỗi đă ban con ḿnh để ai tin vào Ngài th́  được cứu độ khỏi phải chết đời đời ( Ga 3:16)

 

 Giai đoạn 3

Thiên Chúa yêu thương con người  th́ con người phải đáp trả lại  ḷng thương yêu của Thiên Chúa

Cách đáp trả duy nhất: là tuân theoThánh Ư Thiên Chúa, mà Thánh Ư Ngài  nằm gọn trong hai cụm từ Mến Thiên Chúa yêu người.

Mến Thiên Chúa th́ phải yêu người. Nếu  yêu người th́ mới mến Thiên Chúa.

1-Để  mến Thiên Chúa,

a- th́ phải thờ phượng  Ngài

Thờ phượng Thiên Chúa bằng cách cảm tạ, ngợi  khen, cầu nguyện  với Ngài và lắng nghe lời Ngài ẩn náu trong KinhThánh, trong các sách thiêng liêng và trong những biến cố của đời sống

b- th́ phải tin vào Đức Giêsu, con của  Thiên Chúa

Tin vào Đức Giêsu th́ phải tuân theo những lời giáo huấn  và chấp nhận những chân lư mặc khải mà  Ngài rao giảng.

 c- th́ phải diệt trừ  tội lỗi.  

Dầu tội  thường  được nghĩ tới như là một vi phạm  chống lại Thiên Chúa, nó c̣n  được hiểu là  sự vi phạm  chống lại tha nhân  và mọi tạo vật. Tội là  một vi phạm  phẩm giá con người, cản trở  sự tự do  của chúng ta, và của người khác. Người ta phạm tội khi  để  ư  chí  của ḿnh chiều theo ḷng dục. Ḷng dục có 7 mối  : kiêu ngạo, ghen tương, giận dữ, lười biếng, tham lam, mê ăn uống, mê đắm sắc dục. Chúng là nguồn sinh ra các  tư tưởng và hành vi tội lỗi. Chúng là những xu hướng phạm tội hay là những yếu đuối để tội có thể xẩy ra.

2-  Để yêu người

th́ phải  tha thứ  những xúc phạm của anh em, phải yêu cả kẻ thù của ḿnh nữa.

3- Yêu người th́ mến Chúa"

Phần thưởng  của sự "Yêu người th́ mến Chúa" được đề cập tới trong bài ngụ ngôn của Đức Giêsu Kitô về ngày phán xét chung, ngày mà Đức Vua tách biệt các dân thiên hạ, thành hai nhóm bên phải và bên trái ( Mt25:34-46):

 Bấy giờ  Đức Vua sẽ phán  cùng những người ở bên phải  rằng: " Nào những kẻ  Cha Ta  chúc phúc, hăy đến  thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các  ngươi ngay từ thủa  tạo thiên lập địa.  V́ xưa Ta đói, các ngươi đă cho ăn; Ta khát, các ngươi đă cho  uống; Ta là khách lạ, các ngươi đă tiếp rước; Ta  trần truồng, các ngươi đă cho mặc ; Ta đau yếu, các ngươi đă  thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han"   Bấy giờ những người công chính  sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đă thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đă thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đă thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù mà đến hỏi han  đâu?"  Đức Vua sẽ đáp lại rằng:  " Ta bảo thật  các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đă làm cho chính Ta  vậy."  Rồi Đức Vua sẽ phán  cùng những người ở bên trái rằng:  "  Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.  V́ xưa Ta đói, các ngươi đă  không cho ăn; Ta khát, các ngươi đă không cho  uống; Ta là khách lạ, các ngươi đă không tiếp rước; Ta  trần truồng, các ngươi đă không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đă  chẳng  thăm viếng." Bấy giờ những người ấy cũng sẻ thưa  rằng: "   Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đă thấy Chúa đói, khát hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng đau yếu và ngồi tù mà không phục vụ Chúa đâu?"   Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ  rằng:  " Ta bảo thật  các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây là các ngươi đă không làm cho chính Ta  vậy."  Thế là họ ra đi để chịu cực h́nh muôn kiếp, c̣n những người công chính  ra đi  để hưởng  sự sống muôn đời

 

Luật mến Chúa và Yêu người

Có thể nói rằng   luật mến Chúa  và Yêu người  được tóm tắt  trong 10 giới Răn và Tám Mối Phúc Thật .

 Mười Giới Răn  được Thiên Chúa  trao cho con người qua  tay Ông Mô-sê trên núi Sinai thời Kinh Thánh Cựu Ước.:

-Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.   Ngươi không  được tạc tượng  vẽ h́nh bất cứ vật  ǵ  để mà   thờ-

- Ngươi không được dùng danh  Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, v́ Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.

- Ngươi hăy giữ  ngày Sabát ( Ngày Chủ Nhật) mà coi đó là ngày thánh như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đă truyền cho ngươi. Trong  6 ngày, ngươi sẽ lao động. C̣n ngày Sabát ( Chủ Nhật) ngươi phải kính Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi.

- Ngươi hăy thảo kính cha mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đă truyền cho ngươi

- Ngươi không được giết người     

- Ngươi  không  được ngoại t́nh

- Ngươi  không được trộm cắp

- Ngươi không được làm chứng dối hại người

- Ngươi không được ham muốn vợ người

- Ngươi không được thèm muốn của cải, nhà cửa , tài sản của người

Tám Mối Phúc Thật  ( Mt 5,1-12)

Thấy đám đông, Đức  Giêsu lên núi, Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng :

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, v́ nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành, v́ họ sẽ được đất Hứa làm gia nghiệp

Phúc thay ai sầu khổ , v́ họ  sẽ được Thiên Chúa ủi an

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, v́ họ sẽ được  Thiên Chúa cho thoả ḷng

Phúc thay  ai xót thương người v́ họ sẽ được Thiên Chúa xót thương

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch v́ họ sẽ được nh́n thấy Thiên Chúa

Phúc thay ai xây dựng ḥa b́nh  v́ họ sẽ được goị là con Thiên Chúa

Phúc thay ai bị bách hại v́ sống công chính, v́ nước Trời là của họ.

Phúc thay anh em khi v́ Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.  Anh em hăy vui mừng hớn hở, v́ phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật lớn lao.  Quả vậy các ngôn sứ là những người  đi trước  anh em  cũng bị người ta bách hại như thế .

 

                                                                       Jesus | Film complet et gratuit à regarder en version complète en ligne en streaming.

                  xin click vào h́nh để coi   film

 
    

         Phải chăng Bát Chánh Đạo của Đức Phật

                       là 8 đặc điểm của Đức Công Chính

                                          mà Đức Giêsu rao giảng

 

Bát Chánh  đạo  gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh tin tấn, chánh ngữ, chánh mạng , chánh niệm   và chánh định . 

1- Chánh kiến.  Chánh là đúng sự thật. Kiến là thấy, là xem xét.

Chánh kiến là nhận ra sự thực  trong các biến cố mà không tà kiến, không thiên lệch  khi cắt nghĩa biến cố.  Người công chính  th́ nhạy bén. Khi gặp một biến cố liên hệ tới họ và những người xung quanh, họ nhận ngay ra được  sự thực đâu là nguyên do, đâu là hiệu quả. Người công chính khi họ lănh đạo cộng đồng xă hội, họ t́m hiểu thực trạng xă hội cộng đồng tại sao lại có sự chia rẽ để rồi nghĩ ra cách giải quyết  vấn đề.

 

2- Chánh tư duy

Chánh tư duy là đưa tâm trí  hướng thượng, nghĩ đến  những điều thanh cao, nhằm đích chân  lư mà tiến.  Chánh tư duy là  đức tính của người công chính. Chẳng hạn  họ luôn luôn có tưởng rằng dù là lương  dù là giáo, mọi người đều là con một Chúa, đều là  chung một Phật Tính, là anh em với nhau th́ phải thương yêu nhau.

Khi ở trong tư thế lănh đạo, họ sẽ xử thế cách nào?  Khi lănh đạo xă hội th́ họ  chỉ nghĩ đến cách làm sao cho xă hội được an b́nh  và hạnh phúc trong tinh thần  huynh đệ  con một Chúa. Chúa này là Đấng Tác Tạo vũ trụ, tạo dựng con người giống h́nh ảnh  của Ngài.. Nếu là người  theo đạo Phật th́ người công chính chỉ nghĩ đến mọi người đều là phân thân của Chân Như Bản Thể,  chung một Phật Tánh, mọi người là anh em với nhau. Là người Việt, mọi người phải gần gũi nhau , là đồng bào với nhau v ́ cùng chung một  khí huyết con một tổ tiên  ḍng giống Lạc Hồng.

 

3 Chánh nghiệp

Chánh nghiệp  là nghề chính đáng, nghề ngay thẳng, nghề không làm hại người, nghề phục vụ  xă hội trực tiếp hay gián tiếp.  Người công chính  khi chọn nghề th́ họ dựa vào hai nguyên tắc: nuôi thân nhưng đồng thời  phục vụ xă hội , nghĩa là có ích cho xă hội, góp phần làm cho xă hội thăng tiến. Những nghề nào có nhiều tiền nhưng làm hư con người của họ hay con người khác th́ họ không làm. Chẳng hạn  ăn cắp,  tham nhũng, măi dâm th́ không phải là Chánh nghiệp cần phải loại bỏ

 

4- Chánh tin tấn.

Chánh  tin tấn là tín ngưỡng chân chính.   Cái tư tưởng  ' dù là lương dù là giáo' mọi người đều là anh em với nhau, phải thương yêu nhau. Cái tư tưởng đó phản ảnh  cái chánh tin tấn của họ.  Trong đầu óc của người công chính  từ ngữ Chúa, từ ngữ  ông Trời ám chỉ  BảnThể Tuyệt Đối của Vũ Trụ.  Người Việt  dù theo Đạo Trời và Tổ Tiên, dù theo  Phật Giáo Ḥa Hảo, dù theo Cao Đài Giáo đều tuyên xưng BảnThể Tuyệt Đối của Vũ Trụ là ông Trời, Đấng Hóa Công, Đức Ngọc Hoàng. Các tôn giáo này  đều tin rằng  con người được thông phần  bản thể với BảnThể Tuyệt Đối v́ được xuất phát từ BảnThể Tuyệt Đối mà ra. Xin dẫn chứng:  Đức Huỳnh Phú Sổ  Giáo Chủ PGHH viết rằng:

  Đức Ngọc Hoàng mở cửa Thiên Môn

 Đặng ban thưởng Phật Tiên  với Thánh

                    ( quyển 2  Kệ nhan đề Dân Người Khùng,  Bộ Sấm Giảng Thi Văn )

Đạo Trời  có  những câu ca dao:

Không có Trời, ai ở được với ai

 hoặc

Lạy Trời mưa xuống,

lấy nước tôi uống 

hoặc

Trời cho cày cấy đầy đồng ,

 xứ nào xứ nấy trong ḷng vui ghê!.

                                                                       ( Ca dao tục ngữ VN)

Người công chính dù thuộc thành phần tôn giáo nào  đều tin rằng  khẩu nghiệp, ư nghiệp và thân nghiệp sẽ ảnh hưởng đến kiếp sau: Ở  kiếp sau,  nếu khẩu nghiệp, ư nghiệp và thân nghiệp tốt th́ Thiên đàng là phần thưởng (người Kitô Giáo), thần thức sẽ nhập vào Vũ Trụ vô biên  tức Chân Như Bản Thể  ( Phật Giáo), Thiên Môn là phần thưởng ( PGHH).

Người công chính  th́ có tín ngưỡng  rất mạnh, tín ngưỡng này  tác động mạnh  tới những hành động  của họ  trong mọi lănh vực.

 

5- Chánh ngữ  

Chánh ngữ  là  nói lời  ngay thẳng  và  chân thật , không nói những lời xảo ngôn hoặc dối trá  để lường gạt  anh em đồng loại. Dùng lời nói mà khuyên bảo kẻ khác làm thiện.  Người công chính từ trong gia đ́nh  ra ngoài xă hội rất thận trọng  lời nói. Họ không nói lời lăng mạ làm nhục ai, không dối trá, xảo ngôn với ai, v́ thế họ được kính nể. Người công chính chỉ nói lời xây dựng khuyên bảo làm việc thiện. Lời nói của họ phát ra từ cái tâm của họ. Cái tâm của họ gần giống cái Lương Tâm tức tiếng nói của Thiên Chúa ( Kitô Giáo) nhằm xây dựng  t́nh bác ái. Cái tâm của họ gần giống cái  Chân Tâm xây dựng  từ bi hỷ xả  ( Phật Giáo)

 

6- Chánh  mạng

  Chánh mạng là sinh mạng chân chính trong sạch. Nhưng nó trở nên xấu v́ ư đồ, v́ mắt mũi  tai miệng  chân tay,  v́ bồi bổ thân xác quá đáng . Ư đồ đó, ngũ quan đó, thân xác đó có thể làm cho con người ra hư, và làm gương xấu cho những người xung quanh . Người công chính nghĩ rằng sanh mạng của ḿnh th́  tốt đẹp. Người Kitô hữu nghĩ rằng nó tốt đẹp v́ được Thiên Chúa tạo dựng. Người Phật Giáo nghĩ rằng nó tốt đẹp v́ là  phân thân của BảnThể Tuyệt Đố Vũ Trụ. V́ thế sanh mạng của mỗi người không được phá hủy. Tuy nhiên mắt mũi  tai miệng  chân tay và thân xác  thường là cửa ngơ cho sự xấu  vào làm cho sanh mạng mất  vẻ tốt lành. Bởi vậy người công chính tự chủ  thường kiểm soát mắt mũi  tai miệng  chân tay không làm dịp tội  cho những người khác  bị hư đi v́ ḿnh.

 

7- Chánh niệm

  Chánh niệm là ghi tạc vào  tâm trí  những ư niệm  chân thiện mỹ  về ư nghĩa  cuộc đời con người. Những ư niệm  phần nhiều rút ra từ  giáo lư  của đấng sáng lập tôn giáo nhằm hướng dẫn  những sinh hoạt con người sao cho tốt đẹp cho cá nhân  và cho xă hội. Người  công chính Kitô Giáo  ghi tạc  những lời nói của Chúa Giêsu trong các sách Phúc Âm vào trong ḷng  để hành động  theo đúng mối tương quan Thiên nhân tương dữ. Người công chính Phật Giáo ghi tạc  những lời nói của Đức Phật  để hành động  theo đúng tinh thần  Từ Bi hỷ xả đối với nhân loại để nhờ đó cái Tâm  của con người nên giống  ChânTâm trong ḷng.

 

8- Chánh  định

 Chánh định là giữ tâm trí thảnh thơi không vương vấn sự đời.  Khi tâm hồn phẳng lặng th́ lúc đó nghe thấy tiếng nói  trong ḷng.  Tiếng nói đó chính là  Chân Tâm. ChânTâm đây Phật Giáo ám chỉ  Chân Như Bản Thể Tuyệt Đối của Vũ Trụ. C̣n Kitô Giáo hiểu Chân Tâm tức là Lương Tâm, tiếng nói của Thiên Chúa trong ḷng con người. Từ ngữ Chánh định của Phật Giáo đồng nghĩa với từ ngữ  Chiêm Niệm  hay Nguyện Ngắm của Kitô Giáo. Người công chính Kitô Giáo năng chánh định  hay chiêm  niệm th́ làm sao mà không  nghĩ tới Chúa, mà khi nghĩ đến Chúa  th́ phải thực thi mối tương quan: mến Chúa th́ yêu người, yêu người th́ mến Chúa, đấy là  tiếng Chúa nói trong ḷng. Người Công Chính Phật Tử chánh định th́ làm sao mà không nghĩ tới Đức Phật, mà khi nghĩ đến Đức Phật  th́ phải thực thi Từ Bi Hỷ Xả và đạt cho kỳ được 10 hạnh lành về thân khẩu ư, đấy là tiếng nói của Chân Tâm tức tiếng nói của  Chân Như BảnThể Vũ Trụ. Muốn  chánh định  hay chiêm niệm  th́ mỗi ngưới phải tập cho có thói quen hồi tâm.  Hồi tâm là kiểm điểm những hành động  đă qua của ḿnh  rồi nghĩ đến ư nghĩa  cuộc đời của ḿnh. Sau đó đi vào chánh định hay chiêm niệm. Sau khi chánh định  hay chiêm niệm,  mỗi người sẽ cảm thấy ḿnh phải sống thế nào trong cuộc đời này cho tốt  đẹp nơi ḿnh  và nơi xă hội mà ḿnh là phần tử. 

 Sau khi t́m hiểu Bát Chánh Đạo của Đức Phật Thích Ca, chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm của người Công Chính, người mà Chúa Giêsu hai lần chúc phúc trong hiến chương nước Trời: Phúc thay ai khát khao nên người công chính v́ họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả ḷng, Phúc thay ai bị bách hại v́ sống công chính v́ nước Trời là  của họ. Vậy người Công Chính  là người  có 8 đặc điểm: chánh kiến, chánh tư duy,chánh nghiệp, chánh tin tấn, chánh mạng, chánh ngữ, chánh niệm và chánh định .    

             Cách sống đạo của tín đồ Thiên Chúa Gíáo

 Người tín đồThiên Chúa Giáo  sống đạo  bằng nhiều cách. Đây  là một phương cách thường  dược dùng :

Tín đồ  dùng lời Thiên Chúa  trong Kinh Thánh  mà suy niệm  khi đến với Thiên Chúa trong thánh đường (Kinh Thánh Cựu Uớc ghi chép  lời Thiên Chúa nói ra qua các ngôn sứ  của  ngài.  C̣n Kinh Thánh  Tân Ước ghi chép lời  Đức Giêsu Kitô conThiên Chúa giảng dạy khi Ngài c̣n tại thế) rồi  dùng lời ca tiếng hát mà dâng những lời chúc tụng, ngơị khen, cảm tạ hồng ân Thiên Chúa ban, sau cùng đem lời Thiên Chúa ra  thực hành trong cuộc sống  hằng ngày. Mời quí vị  thưởng thức cách tín đồ Thiên Chúa Giáo sống đạo bằng những lời ca tiếng hát của  nhạc sỹ Khổng Vĩnh Thành và nhà thơ  nổi tiếng  Phạm xuân Thu trong những đề tài sau đây:

 

Khổng Vĩnh Thành  và  Phạm xuân Thu: với những bài : 

                        -Phúc ai kính sợ Chúa

                    -Con xin trở về

                   -Lời người thống hối

Khổng Vĩnh Thành : với bài   Điều răn trọng nhất

Phạm xuân Thu : với bài    Đêm Hồng Ân

Tất cả những bài này đều ở trong  2 CD  " Cùng nhau Cầu nguyện năm 2010  vol 1 và Vol 2

     Xin Quí vị độc giả click   Video thơ nhạc  rồi   click  từng bài  ở trong  danh sách  liệt kê  trong trang video thơ nhac  mà thưởng thức

 

             

 
 

 

  Những thay đổi về nhận thức đối với

                         Công cuộc Truyền Giáo

                                                    Lm. Nguyễn Quang Khoa, SVD

 

Giống như nhiều người, tôi mang trong đầu một h́nh ảnh nhất định về các vị thừa sai. H́nh ảnh này được h́nh thành phần lớn bởi sách vở viết về các nhà thừa sai tây Phương đi truyền giáo ở Châu Phi và Châu Á vào thế kỷ 19 mà tôi đă từng được  đọc qua. Với chiếc áo chùng thâm, mũ rộng vành, bộ râu dài, một cây Thánh Giá đeo trước ngực cùng gậy batoong, h́nh ảnh vị thừa sai trở nên hoàn chỉnh trong tâm trí tôi.  Có người đă cho rằng h́nh ảnh như vậy về các vị thừa sai hơi cổ điển và mang tính thành kiến.  Thật sự mà nói th́ tôi đă không hề có một khái niệm nào khác hơn về các nhà thừa sai cũng như chưa có dịp được gặp gỡ các nhà truyền giáo bằng xương bằng thịt cho đến khi tôi đến thăm Đại Chủng Viện Ngôi Lời ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn vào năm 1998 nhằm để t́m hiểu thêm về Ḍng Truyền Giáo Ngôi Lời.  Nhà Truyền Giáo Ngôi Lời đầu tiên mà tôi được diện kiến cũng là một trong những vị đặc trách ơn gọi của Nhà Ḍng lúc bấy giờ:  Tu Huynh Dennis Newton, SVD.   Hóa ra, các thành viên thuộc Ḍng Truyền Giáo Ngôi Lời không hoàn toàn mang những nét truyền thống mà tôi đă từng mường tượng trước đó về các nhà thừa sai.  Thật sự mà nói, tôi không cảm thấy ngạc nhiên cũng như không thấy thất vọng lắm về những nét khác biệt giữa những vị thừa sai Tây Phương thuộc thế kỷ 19 và các nhà truyền giáo Ngôi Lời mà tôi đă được giáp mặt mười hai năm về trước. Một bên là những vị sống vào thế kỷ 19; một bên là những vị sống vào những năm tháng cuối của thế kỷ 20. Một bên là những vị đến từ các nước Châu Âu; một bên là một số vị vốn là những người tỵ nạn ở Hoa Kỳ sau biến cố 1975. Một bên là những vị thừa sai mang tâm tư đi t́m kiếm các linh hồn cho Chúa; một bên là các nhà truyền giáo với hoài băo chia sẻ Tin Mừng Đức Ky-Tô với những con người sống trong các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Khoảng cách thời gian một thế kỷ đủ làm cho mọi sự phải đổi thay, kể cả việc truyền giáo và những con người tham dự vào công việc mang đầy tính năng động này.

Đối với tôi, sự khác biệt mang tính thời đại nói trên là dấu chỉ cho những thay đổi tất có về chiều sâu của công cuộc truyền giáo trong hơn một thế kỷ qua và trong những năm sắp tới. Thế giới luôn không ngừng biến đổi cùng với tất cả các hoạt động của con người, đặc biệt là vào thời điểm chuyển tiếp từ thiên niên kỷ thứ hai sang thiên niên kỷ thứ ba.  Từ nhu cầu phải mang Lời Chúa từ thế giới Âu Mỹ đến với những người dân Á Phi xa xôi, thế giới ngày nay cùng lúc phải đối diện với nhu cầu tiếp tục Phúc Âm hóa lục địa và Tái Phúc Âm hóa xă hội Âu Mỹ. Từ mục tiêu mở mang nước Chúa qua việc xây dựng các cấu trúc Giáo Hội  địa phương ở các xứ cựu truyền giáo Á Phi, công cuộc truyền giáo của thế kỷ 21 đang chuyển hướng sang việc quảng bá và cổ suư các giá trị Tin Mừng trong cuộc sống hàng ngày ở mọi nơi trên thế giới.  Từ cách thức  truyền giáo được thể hiện qua việc gia tăng con số các  tân ṭng, Giáo Hội đă nhận thức được tầm quan trọng của việc củng cố và canh tân đời sống đức tin nơi những người đă chịu Phép Rửa.

 
 

Những biến đổi của t́nh h́nh thế giới và những chuyển hướng của công cuộc truyền giáo trước ngưỡng cửa của thiên kỷ thứ ba đ̣i hỏi người ta phải có cái nh́n mới cũng như xác định những đường hướng mới trong việc làm chứng cho các giá trị của Tin Mừng.  Nếp suy nghĩ theo chiều hướng phân biệt giữa  “xứ truyền giáo”  và  “ xứ đă được truyền giáo”   xem ra đă thuộc  về quá khứ.  Năo trạng cho rằng công việc truyền giáo chỉ tồn tại ở các nước nghèo khổ thuộc lục địa Á Phi đang bị thách thức bởi thực trạng tục hóa tại các nước Âu Mỹ giầu có.  H́nh ảnh các vị thừa sai Âu Mỹ đi  “ khai hóa và mở mang” những người bản xứ ở các nước Á Phi đang bị xóa mờ bởi những số liệu về sự giảm sút ơn gọi làm tu sĩ và linh mục trong những xă hội đă và đang phát triển mạnh mẽ về mặt kinh tế.  Đă qua rồi thời kỳ các vị thừa sai thuộc các Hội Ḍng Truyền Giáo đến từ các nước Âu Mỹ.  Kể từ lúc tôi nhập Ḍng Truyền Giáo Ngôi Lời cho đến nay, đa số các thành viên tuyên khấn trọn đời hàng năm và các tân chức đều mang gốc Á Châu.

Thật vậy, công cuộc truyền giáo ngày nay không c̣n có thể được đặt trên căn bản địa lư, chủng tộc hay kinh tế.  Truyền giáo tự bản thân nó là việc làm chứng cho các giá trị Tin Mừng ngay trong cuộc sống   của mỗi người Ky-tô hữu.  Một người Ky-tô hữu thực thụ không thể nào chối bỏ sứ vụ truyền giáo vốn thuộc về căn bản tính tôn giáo của ḿnh.  Nói cách khác, việc sống đức tin Công giáo vốn mang tính truyền giáo và sự tham gia vào công cuộc truyền giáo bắt đầu từ cách sống đức tin Công Giáo của mỗi người..  Nhận thức này đ̣i hỏi nơi người Ky-tô hữu của thế kỷ 21 một cái nh́n mới về sự dấn thân của họ cho công cuộc truyền giáo. Việc truyền giáo ngày nay không c̣n có thể khoán trắng cho các linh mục hay tu sỹ nam nữ thuộc các tu hội truyền giáo.  Việc mở mang nước Chúa cũng không  thể được xem như là công việc chủ yếu dành cho những nơi chưa có cấu trúc tổ chức Giáo Hội vững vàng. Sự thành công hay thất bại của việc quảng bá các giá trị Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay phần lớn tùy thuộc vào việc làm chứng cho Tin Mừng qua đời sống đức tin cụ thể của mọi thành phần dân Chúa.  Những tâm tư hướng thiện, các nghĩa cử bác ái yêu thương, những việc ngay ư lành trong cuộc sống hàng ngày đều là những nhân chứng hùng hồn cho Tin Mừng Cứu Độ của Đức Ky-tô nơi trần thế. Việc sống các giá trị Tin Mừng trong cuộc sống hàng ngày chẳng những mang tính thuyết phục sâu xa đối với những người không thuộc Ky-tô giáo mà c̣n là nguồn lực động viên quư báu cho chính bản thân những người Ky-tô hữu.   Các giá trị Tin Mừng được làm chứng qua đời sống của người Ky-tô hữu không chỉ là hoa quả của việc truyền giáo mà c̣n là hiện thân của công cuộc truyền giáo.     Do đó, truyền giáo không chỉ là việc từ bỏ gia đ́nh, từ bỏ những nơi  “ giầu sang phú quư” để đến những nơi xa xôi hẻo lánh; truyền giáo không đơn thuần là việc mặc lấy một cuộc sống khó nghèo giống như những người bần cùng  trong xă hội nhằm nhân danh t́nh liên đới với người nghèo;  truyền giáo lại càng không phải là “ mang Tin Mừng Cứu độ” đến cho một ai đó. Truyền giáo là hợp tác với Ngôi Lời Nhập Thể trong việc thánh hóa con người và cuộc sống hàng ngày. Truyền giáo là để  cho Lời Chúa và T́nh Yêu Chúa được triển nở trong cuộc sống con người.

Để đạt được mục tiêu mang ánh sáng Ngôi Lời vào trong cuộc sống  của mọi người, các nhà truyền giáo trong thế giới hôm nay cần ư thức hơn bao giờ hết vai tṛ chủ thể của Ngôi lời Nhập Thể trong công cuộc truyền giáo: Chỉ có Thiên Chúa qua Ngôi Lời Nhập THể là mục tiêu và cũng là phương tiện chính yếu của công  cuộc truyền giáo.    Ngôi Lời Nhập Thể vốn hiện hữu trong mọi tạo vật.   Trong vai tṛ là những người thừa tác và  hợp tác với Ngôi Lời Nhập Thể trong việc thánh hyóa con người và cuộc sống, các nhà truyền giáo cần mở ḷng trước sự hiện hữu  vô h́nh và hữu h́nh của Ngôi Lời Nhập Thể trong cuộc sống của chính bản thân họ và nơi các loài thọ tạo.  Điều này đ̣i hỏi nơi các nhà truyền giáo một tinh thần khiêm nhu, một tấm ḷng cởi mở, một tâm tư vâng phục đối với Ngôi Lời Nhập Thể.  Có như vậy, công cuộc truyền giáo mới đạt được mục tiêu chính yếu của nó là làm chứng cho Ngôi Lời Nhập Thể trong cuộc sống nơi trần gian.  Việc làm chứng này được cụ thể hóa qua cách sống hướng thiện, cách làm việc tôn trọng sự thật, cách cư xử mang đầy tính nhân bản của Ánh Sáng Tin Mừng mà mọi người thể hiện trong cuộc sống Gia Đ́nh, Nơi Sở Làm, tại Trường Học, và ở Nơi Chốn Công Cộng.  Từ đó, công cuộc truyền giáo thật sự  vượt lên trên các giới hạn của việc xây cất những nơi  tế tự hoành tráng, việc tổ chức những hội đoàn  co cụm trong các giáo xứ, việc gây quỹ nhằm xây dựng những cơ sở vật chất cao sang trong Giáo Hội, hay việc quyên góp náo nhiệt cho những dự án bác ái từ thiện ở vùng sâu vùng xa.  Không ai phủ nhận tầm quan trọng của những công việc  kể trên.   Tuy nhiên, những công việc này cần được xây dựng trên một nền tảng nhân bản và bác ái Phúc Âm  vững chắc.  Nền tảng này vốn chỉ được kiến tạo thật sự bằng đời sống đức tin sống động  hàng ngày của mỗi người Ky-tô hữu.

Từ những cảm nghiệm nêu trên, tôi nhận thấy rằng công cuộc truyền giáo là một bộ phận không thể thiếu được  trong đời sống  Giáo Hội.  Công cuộc truyền giáo này không mang những tiêu chuẩn nhất định nào nhằm giúp chúng ta đo lường sự thành công hay thất bại của nó. Công cuộc truyền giáo cũng không nhất thiết phải có những mốc thời gian nhằm xác định nhanh hay chậm của việc quảng bá Tin Mừng trong đời sống nhân loại.   Việc mở mang  nước Chúa lại càng không có những khuôn mẫu cứng nhắc để đánh giá sự tồn tại hay không hiện hữu của Nước Trời tại một nơi chốn cụ thể nào đó.   Trái lại công cuộc truyền giáo được h́nh thành qua cảm nghiệm và kinh nngh     iệm sống đạo cụ thể của những chứng nhân thật sự  cho Tin Mừng Cứu Độ.   Trong tinh thần này, công cuộc truyền giáo và cuộc lữ hành trần thế của Giáo Hội vốn không thể tách rời nhau: Khi nào Giáo Hội c̣n tồn tại th́ công cuộc truyền giáo vẫn tiếp tục. Sự tồn tại song hành giữa Giáo Hội và công cuộc truyền giáo là một quá tŕnh luôn hiện hữu trong đời sống đức tin của mỗi người Ky-tô hữu.  Nói cách khác, Giáo Hội và việc truyền giáo phải được bắt đầu từ nhận thức của mỗi thành viên của Giáo Hội về sự đóng góp thiết thực của họ vào đời sống đức tin.  Qua đó, nước Thiên Chúa không chỉ sẽ đến vào một ngày nào đó trong tương lai mà thật sự được tỏa sáng nơi tâm can của mọi người trong cuộc sống hiện tại.

 
    

        Cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi

                              Câu chuyện trong www.hiephoithanhmau.com

 

Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác tài xế:

- Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người c̣m cầm theo mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới thiệu?

- Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đă có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia đ́nh lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!

 

Cách truyền giáo của một vận động viên Olympic 2012

 

 

Đức Mẹ đă được vinh danh tại Thế Vận Hội Luân Đôn 2012

 người viết:   Nguyễn Long Thao

 

 

 

 

London, England, 10/08/ 2012. - Những ai có dịp theo dơi chương tŕnh truyền h́nh của hệ thống NBC tại Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 8 năm 2012 đều thấy cảnh nữ lực sĩ người Ethiopia, Meseret Defar, đă biểu lộ đức tin của ḿnh ngay sau giây phút vượt qua lằn ranh cuối để chiếm huy chương vàng trong cuộc thi chạy 5000m tại Thế Vận Hội Mùa Hè 2012 tại Luân Đôn.

 

Khi được biết ḿnh thắng huy chương vàng trong cuộc tranh tài Thế Vận Hội, các lực sĩ thường biểu lộ xúc động của ḿnh bằng cách ôm mặt khóc.Nhưng nữ lực sĩ Meseret Defar đă biểu lộ cách khác. Nàng lấy h́nh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để sẵn trong áo chạy đua, úp lên mặt ḿnh, hôn h́nh Đức Mẹ. Nàng khóc với Đức Mẹ và thành khẩn cảm ơn Mẹ. Nàng đă đưa h́nh Đức Mẹ cho các ống kính truyền h́nh ghi h́nh Đức Mẹ như một cử chỉ vinh danh Mẹ Hằng Cứu Giúp.

 

Nữ lực sĩ Meseret Defar là người Kitô Giáo, nàng đă phó thác cuộc tranh tài của ḿnh vào quyền năng của Chúa. Khi Uỷ Ban Thế Vận Hội giới thiệu về nàng, ống kính truyền h́nh cho thấy nàng đeo ảnh Thánh Giá và trước khi chạy đua, nàng đă làm dấu Thánh Giá và thầm thĩ cầu nguyện.

 

Trước khi cuộc đua, nhà b́nh luận thể thao của hệ thống truyền h́nh NBC cho biết 3 vận động viên người Kenya và 2 tay đua khác người Ethiopia, nhất là cô Tirunesh Dibaba là đối thủ sừng sỏ nhất có nhiều cơ hội thắng huy chương vàng.Tuy nhiên, Cô Defar đă đoạt huy chương vàng trong cuộc chay đua 5000m với thành tích 15 phút 04 giây 24 sao (15:04:24). Huy chương Bạc về tay cô Vivian Cheruiyot người Kenya và huy chương đồng về tay cô Dibaba, người Ethiopia.

 

Tưởng cũng nên nói thêm về thành tích chạy đua của cô Defar: Cô đă hai lần vô địch thế giới trong môn chay đua 3000m. Ở cự ly 5000m, tại Hy Lạp năm 2004 cô đoạt huy chương vàng và ở Bắc Kinh năm 2008 cô đoạt huy chương đồng.

 

Vào năm 2006, ở cự ly 5000m, cô đă phá kỷ lục thế giới với thời lượng 14 phút 24 giây 53 sao.

 

Nguyễn Long Thao

 

 

 
 

 

          

    Quan điểm Đạo Đức của Thiên Chúa Giáo

                           xin click   mục   Quan điểm Đạo Đức

 
   

               

    Phong trào Bác ái

             HUYNH  ĐOÀN ĐỨC TIN