|
Tết Nguyên Đán
Ư nghĩa của Tết Nguyên Đán
Lời và ư của Lê Thương (trong Việt Thức.org)
Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống lớn nhất trong năm
của Việt Nam.
Ngày Tết
không những là ngày thiêng liêng của người Việt mà nó c̣n mang sắc
thái văn hóa đặc thù của dân tộc ta. Trên bầu trời cao, những cánh
én đă về, mùa Xuân đă trở lại với vạn vật. Những cành lá trơ trụi
của mùa Đông đă chuyển ḿnh với những mầm non, với lá xanh mơn mởn.
Trong bốn mùa, Xuân là mùa của ngàn hoa tươi thắm, với những cành
lộc non xanh tươi v́ thế mùa Xuân được người đời ưa chuộng hơn cả.
Trong niềm rạo rực đón Xuân, Hàn Mạc Tử đă sáng tác bài “Mùa Xuân
Chín”, xin hăy nghe:

Trong làn
nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lư – bóng xuân sang.
Sóng cỏ
xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Tiếng
ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây.
Thầm th́ với
ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ư vị và thơ ngây.
Khách xa
gặp lúc mùa xuân chín,
Ḷng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
“Chị ấy năm nay c̣n gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
Sau 37 năm
lưu lạc nơi đất khách quê người, cứ mỗi lần Tết đến người Việt tha
hương khắp năm châu cảm thấy ḷng nao nao nhớ lại những mùa Xuân êm
đềm mang nhiều kỷ niệm nơi cố quốc và cảm thấy thấm thía qua những
vần thơ “Xuân Tha Hương” của Nguyễn Bính:
Bốn biển
vẫn chưa yên sóng gió,
Xuân nầy em chị vẫn tha hương.
Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ,
Son sắc say hoài rượu bốn phương.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Em đi non nước xa khơi quá,
Nỗi độ Xuân về bao nhớ thương.
Mỗi độ Xuân về em lại thấy,
Buồn như tên lính ở biên cương.
Chữ
Tết Nguyên Đán mang các nghĩa: Tết do chữ Tiết, có nghĩa là ngày lễ;
Nguyên có nghĩa là bắt đầu; Đán có nghĩa là buổi sớm mai.
Vậy Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho một năm mới với nhiều hy vọng
và may mắn mới.
Đúng ra phải dùng cả ba chữ Tết Nguyên Đán, nhưng người Việt ta có
tính giản dị nên chỉ gọi Tết hay Ngày Tết. Chữ Tết được dùng trong
nhiều thành ngữ như: Ngày Tư Ngày Tết, Năm Hết Tết Đến, Sống Tết
Chết Giỗ, Tết Nhất, Chợ Tết, Ăn Tết, Chúc Tết, Thiệp Tết, Quà Tết,
Lương Tết, Tết Thầy, Tết Xếp…
Ngày Tết mang
rất nhiều phong tục cổ truyền và các phong tục này đă thấm nhuần
trong ḷng người Việt Nam từ xưa đến nay.
|
|
|
Sửa Soạn Tết
Ngay từ đầu tháng Chạp, ở thôn quê cũng như thị thành, thiên hạ đă
bắt đầu sửa soạn Tết. Nhà nhà lo mua heo, ḅ, gà, vịt để sẵn, rồi
c̣n mua nếp, đậu hầu chuẩn bị gói bánh chưng, bánh tét. Ngoài ra c̣n
muối dưa, nén hành, may sắm quần áo mới, sơn phết trang ḥang nhà
cửa, lau chùi bàn thờ, mua tranh, pháo, câu đối, cùng các loại bánh
mứt, trái cây, trà, rượu… C̣n những người thích chơi cảnh, chơi hoa
như các loại hoa hải đường, hoa mai, bích đào, thủy tiên… phải lo
vun trồng, cắt xén để hoa kịp nở vào đầu Xuân. Đa số người Việt Nam
chỉ lo ăn Tết có 3 ngày, tuy nhiên nhiều gia đ́nh, nhất là những gia
đ́nh khá giả chuẩn bị Tết trong nhiều tháng trước.
Chợ Tết
Khoảng trung tuần tháng Chạp, phố xá, chợ búa bắt đầu thêm nhộn nhịp,
nhất là các buổi chợ cuối năm càng tưng bừng tấp nập, đông đúc kẻ
bán người mua. “Đông như chợ Tết”. Vào những ngày chợ Tết hàng hóa
tràn ngập, nhiều gấp bội ngày thường, nào gian hàng vải, gian hàng
bánh mứt, hàng hoa, hàng trái cây, dưa hấu bày bán la liệt. Thấy dưa
hấu là thấy Tết. Dưa hấu lềnh khênh, chất cao thành đống. Khách mua
cố lựa những trái dưa khi cắt ra ruột đỏ tươi v́ người ta cho rằng
mua dưa đầu năm lựa đuợc những trái dưa ruột đỏ thắm thi suốt năm
gặp ṭan những điều may mắn. C̣n những người bán th́ trưng bày những
trái dưa mẫu ruột đỏ au để chiêu dụ khách hàng. Đặc biệt là vào
những ngày cận Tết, ta thấy các ông đồ Nho râu tóc bạc phơ g̣ ḿnh
trên những tờ giấy hoa ở vỉa hè hay góc chợ, múa bút viết những câu
đối với những nét chữ “Rồng bay, Phượng múa” để bán cho những khách
hàng mua về dán ở nhà hay ở bàn thờ.
Áo quần mới:
Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải
thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc
này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả
nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần
phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón
một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.
Kiêng Cữ
Đa số người
Việt Nam ta tin rằng việc ǵ xảy ra đầu năm th́ sẽ liên tục xảy ra
suốt năm v́ thế ta có rất nhiều tục kiêng cữ trong những ngày Tết:
Cữ
Cữ
xui xẻo
cho nên vào những ngày cuối năm có mượn đồ vật
hoặc nợ nần của ai th́ phải lo trả v́, nếu để sang năm mới, người ta
đến đ̣i th́ bị “giông”. V́ thế vào những ngày cuối năm, các chủ nợ
thường đến đ̣i tiền các con nợ v́ để qua năm mới đến đ̣i sợ “giông”
người vay nợ. Ngược lại, các con nợ Tết đến cũng lo chạy đôn, chạy
đáo để thanh toán tiền nợ của ḿnh v́ sợ để leo qua năm mới sẽ bị
xui và sẽ bị mang nợ suốt cả năm
Cũ
Quét Nhà
Vào ngày Tết người ta cữ quét nhà trong suốt ngày mồng một, mồng hai
và mồng ba v́ sợ rằng quét nhà sẽ quét hết tiền bạc, của cải và các
điều may mắn ra ngoài. Nều nhà có rác, ta chỉ quét sơ và gom vào một
xó để chờ hết Tết rồi mới đem đi đổ.
Cữ
Quần Áo
Trong những ngày Tết, người Việt ta cữ ăn mặc quần áo trắng hoặc đội
khăn trắng v́ sợ trong năm sẽ có tang.
Cữ
Ăn Nói
Vào những ngày đầu năm, người trong gia đ́nh phải hết sức thận trọng
về “lời ăn tiếng nói”, chỉ nên dùng những lời lẽ đẹp và tránh những
lời nói không hay như khỉ, chết, đau, ốm hay những lời nói tục tằn,
chửi thề… để suốt năm không gặp những chuyện xui xẻo.
Cữ
Đánh Con
Vào ngày Tết cha mẹ phải cữ đánh con cho dù rằng vào những ngày nầy
con cái “phá như quỷ” cha mẹ cũng đành dằn ḷng v́ nếu đánh con
trong những ngày Tết th́ con sẽ bị “huông”, nghĩa là suốt năm con sẽ
bị đ̣n hoài.
Cữ đi mua vôi
v́ vôi tượng trưng cho sự bạc bẽo, vong ân, bội nghĩa như ta thường
nghe câu “ăn ở bạc như vôi” v́ thế dân gian có câu tục ngữ “Đầu năm
mua muối, cuối năm mua vôi”
Kiêng
kỵ
Kỵ mai táng: Ngày
Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm,
có ư nghĩa rất thiêng liêng và gia đ́nh phải tạm gác mối sầu riêng
để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc; - Ngày
mùng Một Tết người ta rất kỵ người
khác đến xin lửa nhà ḿnh v́ quan niệm lửa là đỏ, là may mắn,
nên giữ, không nên cho đi; - Kiêng cho
nước đầu năm v́ nước
được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc "tiền vào như nước", nếu
cho nước th́ coi như mất lộc;- - Ngày
đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay
mượn hay trả nợ, cho
vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong); - Trong ăn
uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... nếu không
sẽ "xúi quẩy
Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn
tủi hoặc nói tới điều
rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết, kiêng mặc quần áo màu trắng và đen
(màu của tang lễ);- ... ... ...
Ngoài các điều trên, thiên hạ c̣n kiêng cữ nhiều thứ khác trong ngày
Tết như kiêng căi nhau, kiêng đánh lộn, kiêng gây tiếng động, kiêng
làm vỡ chén bát, ly tách, kiêng tiếng khóc dù là tiếng khóc của trẻ
con đ̣i bú sữa. Ngoài việc kiêng cữ những điều “xấu”, người ta c̣n
phải làm những điều “tốt”, đó là tục lệ đi mua muối đầu năm. Muối
tượng trưng cho sự đâm đà, mặn ṃi.
.
Mâm Ngũ Quả
Mâm ngũ quả thường gồm thơm, đu đủ, dừa, xoài, trái sung. Phải thừa
nhận rằng đa số nguời Việt Nam, nhất là giới b́nh dân mang nhiều sự
mê tín, dị đoan rất dễ thương. V́ thế mâm ngũ quả chưng bàn thờ
trong những ngày Tết người ta thường chọn những loại trái cây có tên
tốt, mang ư nghĩa như thơm, đu đủ, dừa, xoài, sung… v́ theo họ,
những loại hoa quả nầy tượng trưng cho một năm mới đầy thơm tho,
tiền bạc trong nhà đầy đủ và cuộc sống sung túc.

Giao Thừa Và Lễ Trừ Tịch
Giao Thừa có nghĩa là cũ giao lại cho mới tiếp nhận. Hết giờ Hợi
sang giờ Tư vào lúc nửa đêm 30 Tết là Giao Thừa, thiên hạ làm lễ Trừ
Tịch tiễn vị thần năm cũ, đón vị thần năm mới c̣n được gọi là lễ
“Tống Cựu, Nghinh Tân”. Theo cổ tục, người ta tin rằng từ năm Tư đến
năm Hợi là 12 năm th́ có 12 vị thần Hành Khiển luân phiên nhau, mỗi
năm một vị lo trông coi việc nhân gian v́ thế mà ta có lễ Trừ Tịch
để tiễn đưa và đón các vị thần Hành Khiển của năm cũ và năm mới,
đồng thời cầu cúng cả Bản Cảnh Thành Hoàng và Thổ Công Thần Kỳ mà ta
có câu tục ngữ “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.
Lễ Trừ Tịch ở các làng xă c̣n giữ cổ tục, người ta thiết lập hương
án ở trong trung thiên hoặc nơi sân đ́nh, cũng có khi ở ngă ba làng
xă với vàng mă, hương, đèn, trầu, rượu, hoa quả, xôi gà tế lễ rất
trọng thể. Trong khi tế lễ, họ đánh trống, khua chiêng, đốt pháo
vang dậy trong giờ Giao Thừa. C̣n các tư gia cũng cúng lễ Giao Thừa
trong sân hay trước cửa nhà với mâm lễ vật đặt trên bàn rồi vái tứ
phương. Khi tới Giao Thừa chuông, trống ở các Đ́nh, Chùa, Giáo Đường
khắp nơi cũng được đánh lên vang rền kèm theo tiếng pháo đón Giao
Thừa nổ gịn giă. Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng pháo của giờ Giao
Thừa là âm điệu truyền thống của ngày Tết.
Những kẻ đă từng nghe những âm điệu nầy trong quá khứ, nay v́ hoàn
cảnh bắt buộc họ phải xa ĺa đất mẹ thân yêu, vào đêm Giao Thừa họ
thường gục đầu im lặng để chờ nghe lại âm điệu ngày xưa, nhưng giờ
Giao Thừa cứ lặng lẽ trôi qua và những âm điệu âu yếm kia vẫn biền
biệt, khiến họ hụt hẫng, ḷng họ dâng trào niềm nuối tiếc và uất hận,
rồi ḷng họ cảm thấy nghẹn ngào và đôi ḍng lệ tự nhiên tuôn trào
thấm ướt bờ mi. V́ ai mà họ đă đánh mất kỷ niệm thân yêu nầy? V́ ai
mà họ phải khóc trong những đêm Giao Thừa xa cố quận?
Về Giao Thừa, nữ sĩ Hô Xuân Hương có hai câu đối như sau:
Tối ba
mươi khép cánh càn khôn,
Kẻo sợ ma vương đem quỷ tới.
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa,
Để cho thiếu nữ rước Xuân vào.
Tiền Của Vào
Như Nước
Ở thành
thị, phố phường ta có tục lệ sau giờ Giao Thừa, những người gánh
nước mướn tự động gánh nước đến những nhà trong hàng xóm một vài đôi
nước ngụ ư rằng năm mới gia chủ sẽ làm ăn phát đạt “tiền của vào như
nước” và gia chủ vui vẻ thưởng tiền rất hậu. Cũng có những người
buôn bán, vào những ngày cận Tết đă ân cần dặn trước những người
gánh nước thuê đừng quên gánh nước đổ vào nhà cho ḿnh.
Đi Lễ Chùa, Giáo Đường Và Hái Lộc
Sau khi cúng Giao Thừa xong, thiên hạ làm lễ Thổ Công rồi sửa soạn
đi lễ tại các Đền, Miếu, Đ́nh, Chùa, Giáo Đường để cầu phúc, cầu may
cho năm mới. Ngoài mục đich đi lễ Phật, lễ Chúa, lễ các vị Thần Linh
họ c̣n có dụng ư hái lộc và xin xăm. Hái lộc là một tục lệ nên thơ
của người Việt Nam. Người ta tin rằng lộc là lộc của Trời v́ thế hái
lộc đầu năm sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh vượng cho suốt một năm.
V́ lẽ đó mà vào ngày đầu năm thiên hạ già, trẻ, trai, gái chen chúc
nhau lên Chùa để hái lộc. C̣n xim xăm, đa số người Việt rất tin vào
số mệnh nên song song với việc lên Chùa lễ Phật, hái lộc họ c̣n lên
Chùa để xin xăm hầu biết vận mệnh của ḿnh và gia đ́nh ḿnh trong
năm mới. H́nh thức xin xăm là sau khi van vái Trời, Phật với tất cả
ḷng thành rồi người ta rút một thẻ xăm trong ống (hoăc lắc cho thẻ
xăm rơi ra), đọan mang đến cho người đoán xăm, đôi khi là một thầy
bói, đôi khi là một nhà sư để giải đoán dùm những ngụ ư trong quẻ
xăm. Hầu hết những người lên Chùa xin xăm vào dịp đầu năm đều ra về
với vẻ mặt “vui như ngày Tết” v́ những lá xăm của họ đều hứa hẹn
những điều tốt đep.
Ở miền Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam
Người Việt ta hay tin dị-đoan:Sau
Giao thừa, nếu hoa mai (loại
5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn th́ đó là một điềm may.Cây
đào nếu
có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có h́nh
dáng như bông hồng th́ sẽ có nhiều phúc lộc
|
|
|
Xông Nhà, Xông Đất
Theo cổ tục, vào đầu năm người đến nhà ai trước nhất là người “xông
nhà, xông đất” cho gia chủ và thiên hạ tin rằng đầu năm mới được
người vui vẻ, dễ tính, tốt nết hoặc những người có tên như: Thương,
Mến, Hùng, Dũng, Đẹp, Giàu, Sang, Phú, Quư, Thịnh, Vượng, Tài, Báu,
Lợi, Phước, Lộc, Thọ, Có, Tiền, Bạc, Vàng, Triệu, Tỷ, Thơm… đến nhà
trước nhất th́ gia chủ sẽ được mọi chuyện tốt lành, đẹp đẽ, thịnh
vượng, phú quư, may mắn quanh năm. C̣n ngược lại, gặp người khẳn
tính, cộc cằn, độc ác, khờ dại, ngu ngơ, đần độn hoặc những người có
tên như: Nghèo, Khổ, Xấu, Ghét, Ngu, Hư, Thúi, Chết, Xụi, Thua, Lỗ,
Nợ, Nần, Túng, Thiếu, Đau, Ốm, Bệnh, Ghẻ, Chốc, Bại, Xụi, Bần, Hàn,
Đói, Rách, Gian, Ác… th́ suốt năm gia chủ làm ăn lủng củng, thất bại
hay gặp những chuyện vẩn vơ, bực ḿnh…. Chinh v́ vậy mà các cụ lớn
tuổi hoặc những người c̣n mang nặng cổ tục rất kén chọn người đến
xông nhà, xông đất, thường họ mượn người tốt nết, tinh t́nh dễ
thương, có tên đẹp đến xông đất dùm. C̣n trong gia đ́nh, sau khi đi
lễ Chùa, Nhà Thờ về là xông đất nhà ḿnh và gia đ́nh thường để cho
người tốt nết nhất vào nhà trước.
Theo tục lệ, người đến xông đất đốt một phong pháo và chúc gia chủ
mọi điều tốt lành, tùy theo trường hợp, lời chúc có thể:
• Nếu gia chủ có cha mẹ già th́ chúc “Tăng phúc, tăng thọ”
• Nếu gia chủ là nhà nông th́ chúc “Phong đăng ḥa cốc”
• Nếu gia chủ là một nhà công kỹ nghệ th́ chúc “Tốt tài sai lộc”
• Nếu gia chủ là một thương gia th́ chúc “Buôn may, bán đắt, nhất
bản vạn lợi”
• Nếu gia chủ là một quân nhân hay công chức th́ chúc “Mau thăng
quan, tiến chức”
Trong trường hợp chẳng may gặp người xấu nết, tính t́nh cộc cằn hay
xui hơn nữa bị một lăo ăn mày đến viếng đầu năm th́ gia chủ phải lấy
gạo, muối ra văi tứ phía và cúng vái gọi là “đốt phong long” rồi chờ
một người khác khá hơn đến “tái xông”
Mừng Tuổi Và Chúc Xuân
Một trong những tục lệ đẹp đẽ nhất của người Việt Nam là mừng tuổi
ông bà, cha mẹ vào dịp đầu Xuân. Đây là một h́nh thức hiếu đạo của
con cháu đối với công ơn dưỡng dục của các đấng sinh thành đă nuôi
dưỡng nên minh mà chỉ Việt Nam mới hănh diện có cổ tục nầy trên thế
giới ngày nay.
Mừng tuổi là mừng ông bà, cha mẹ thọ thêm một tuổi. Sáng mồng một
Tết, sau khi ông bà, cha mẹ khăn áo chỉnh tề, con cháu cũng xúng
xính trong những bộ quần áo mới, trải chiếu xuống đất lạy 2 lạy đồng
thời chúc ông bà, cha mẹ những lời tốt đẹp, hiếu thảo. Ông bà, cha
mẹ cũng chúc lại con cháu ngoan ngoăn, thông minh, chóng lớn, học
hành mau đỗ đạt rồi cho con cháu những tờ giấy bạc mới đựng trong
những phong b́ màu đỏ gọi là tiền “ĺ x́”, có nghĩa là những đồng
tiền may mắn.
Ngoài tục lệ mừng tuổi, vào ngày Tết thiên hạ c̣n có lệ chúc Tết lẫn
nhau. Nếu ở xa người ta gởi thiệp, c̣n nếu ở gần bạn bè, họ hàng
thăm viếng và chúc Tết với nhau. Những lời chúc thông dụng là
“Phước, Lộc, Thọ”, “An Khang, Thịnh Vượng”, “Vạn Sự Như Ư”, “Sống
Lâu Trăm Tuổi”, “Tân Xuân Vạn Hạnh”, “Con Đàn, Cháu Lũ”, “Tiền Vào
Như Nước”, “Tiền Rừng Bạc Biển”, “Đa Tài, Đa Lộc”, “Mau Thăng Quan,
Tiến Chức”…
Ngoài việc họ hàng, bạn bè thăm viếng chúc Tết lẫn nhau, các nhân
viên thuộc quyền ở các Ty, Sở, Đơn Vị vào ngày Tết cũng có lệ đến
chúc Tết các xếp của ḿnh. Kèm theo những lời chúc Tết đẹp nhất, họ
c̣n có “quà biếu” cho các xếp họ nữa. Xin hăy nghe bài “Chúc Tết”
của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương:
Lẳng lặng
mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau: Trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen nầy ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giă trầu.
Lẳng lặng
mà nghe nó chúc giàu,
Trăm, ngh́n, vạn, mớ để vào đâu.
Phen nầy ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi lọ phải cầu.
Lẳng lặng
mà nghe nó chúc sang,
Đứa th́ mua tước, đứa mua quan.
Phen nầy ông quyết đi buôn lộng,
Vừa bán, vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng
mà nghe nó chúc con,
Sinh năm, đẻ bảy được vuông tṛn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Bói Toán
Vào ngày đầu năm người Việt ta thích đi xem bói toán để biết vận
mệnh của ḿnh trong năm mới. Bói toán có nhiều cách, như bói Kiều,
bói sách, bói tuồng, nhờ thầy bói xem bói dùm… Bói Kiều là lấy cuốn
Kiều ra để trên bàn, sau khi thắp hương đèn và khấn vái Nguyễn Du,
Thúy Kiều, Kim Trọng rồi người ta lật bất cứ trang nào của Kiều ra
xem, những câu thơ sau đây được xem là tốt:
Dưới ḍng
suối chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Gương nga chênh chếch ḍm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Đầu năm mà
gặp nước, gặp cầu, gặp vàng th́ không có ǵ may mắn, hạnh phước cho
bằng. Nước tượng trưng cho tiền bạc nên ta có câu thành ngữ “tiền
vào như nước”, c̣n cây cầu tượng trưng cho sự thông giao, sự liên
lạc, sự đoàn tụ và vàng tượng trưng cho sự giàu sang, phú quư.
|
|