Tết Nguyên Đán

    

    Ư nghĩa  của Tết Nguyên  Đán

                          Lời và ư  của Lê Thương  (trong Việt Thức.org)

 

      Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống lớn nhất trong năm của Việt Nam.

Ngày Tết không những là ngày thiêng liêng của người Việt mà nó c̣n mang sắc thái văn hóa đặc thù của dân tộc ta. Trên bầu trời cao, những cánh én đă về, mùa Xuân đă trở lại với vạn vật. Những cành lá trơ trụi của mùa Đông đă chuyển ḿnh với những mầm non, với lá xanh mơn mởn. Trong bốn mùa, Xuân là mùa của ngàn hoa tươi thắm, với những cành lộc non xanh tươi v́ thế mùa Xuân được người đời ưa chuộng hơn cả. Trong niềm rạo rực đón Xuân, Hàn Mạc Tử đă sáng tác bài “Mùa Xuân Chín”, xin hăy nghe:

 

Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lư – bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây.

Thầm th́ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ư vị và thơ ngây.

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Ḷng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
“Chị ấy năm nay c̣n gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”

Sau 37 năm lưu lạc nơi đất khách quê người, cứ mỗi lần Tết đến người Việt tha hương khắp năm châu cảm thấy ḷng nao nao nhớ lại những mùa Xuân êm đềm mang nhiều kỷ niệm nơi cố quốc và cảm thấy thấm thía qua những vần thơ “Xuân Tha Hương” của Nguyễn Bính:

Bốn biển vẫn chưa yên sóng gió,
Xuân nầy em chị vẫn tha hương.
Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ,
Son sắc say hoài rượu bốn phương.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Em đi non nước xa khơi quá,
Nỗi độ Xuân về bao nhớ thương.
Mỗi độ Xuân về em lại thấy,
Buồn như tên lính ở biên cương.

Chữ Tết Nguyên Đán mang các nghĩa: Tết do chữ Tiết, có nghĩa là ngày lễ; Nguyên có nghĩa là bắt đầu; Đán có nghĩa là buổi sớm mai.
Vậy Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho một năm mới với nhiều hy vọng và may mắn mới.

Đúng ra phải dùng cả ba chữ Tết Nguyên Đán, nhưng người Việt ta có tính giản dị nên chỉ gọi Tết hay Ngày Tết. Chữ Tết được dùng trong nhiều thành ngữ như: Ngày Tư Ngày Tết, Năm Hết Tết Đến, Sống Tết Chết Giỗ, Tết Nhất, Chợ Tết, Ăn Tết, Chúc Tết, Thiệp Tết, Quà Tết, Lương Tết, Tết Thầy, Tết Xếp…

Ngày Tết mang rất nhiều phong tục cổ truyền và các phong tục này đă thấm nhuần trong ḷng người Việt Nam từ xưa đến nay.

 
   

Sửa Soạn Tết

Ngay từ đầu tháng Chạp, ở thôn quê cũng như thị thành, thiên hạ đă bắt đầu sửa soạn Tết. Nhà nhà lo mua heo, ḅ, gà, vịt để sẵn, rồi c̣n mua nếp, đậu hầu chuẩn bị gói bánh chưng, bánh tét. Ngoài ra c̣n muối dưa, nén hành, may sắm quần áo mới, sơn phết trang ḥang nhà cửa, lau chùi bàn thờ, mua tranh, pháo, câu đối, cùng các loại bánh mứt, trái cây, trà, rượu… C̣n những người thích chơi cảnh, chơi hoa như các loại hoa hải đường, hoa mai, bích đào, thủy tiên… phải lo vun trồng, cắt xén để hoa kịp nở vào đầu Xuân. Đa số người Việt Nam chỉ lo ăn Tết có 3 ngày, tuy nhiên nhiều gia đ́nh, nhất là những gia đ́nh khá giả chuẩn bị Tết trong nhiều tháng trước.

Chợ Tết

Khoảng trung tuần tháng Chạp, phố xá, chợ búa bắt đầu thêm nhộn nhịp, nhất là các buổi chợ cuối năm càng tưng bừng tấp nập, đông đúc kẻ bán người mua. “Đông như chợ Tết”. Vào những ngày chợ Tết hàng hóa tràn ngập, nhiều gấp bội ngày thường, nào gian hàng vải, gian hàng bánh mứt, hàng hoa, hàng trái cây, dưa hấu bày bán la liệt. Thấy dưa hấu là thấy Tết. Dưa hấu lềnh khênh, chất cao thành đống. Khách mua cố lựa những trái dưa khi cắt ra ruột đỏ tươi v́ người ta cho rằng mua dưa đầu năm lựa đuợc những trái dưa ruột đỏ thắm thi suốt năm gặp ṭan những điều may mắn. C̣n những người bán th́ trưng bày những trái dưa mẫu ruột đỏ au để chiêu dụ khách hàng. Đặc biệt là vào những ngày cận Tết, ta thấy các ông đồ Nho râu tóc bạc phơ g̣ ḿnh trên những tờ giấy hoa ở vỉa hè hay góc chợ, múa bút viết những câu đối với những nét chữ “Rồng bay, Phượng múa” để bán cho những khách hàng mua về dán ở nhà hay ở bàn thờ.

Áo quần mới:

Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó. 

 

 Kiêng Cữ

Đa số người Việt Nam ta tin rằng việc ǵ xảy ra đầu năm th́ sẽ liên tục xảy ra suốt năm v́ thế ta có rất nhiều tục kiêng cữ trong những ngày Tết:

 Cữ

Cữ xui xẻo

cho nên vào những ngày cuối năm có mượn đồ vật hoặc nợ nần của ai th́ phải lo trả v́,  nếu để sang năm mới, người ta đến đ̣i th́ bị “giông”. V́ thế vào những ngày cuối năm, các chủ nợ thường đến đ̣i tiền các con nợ v́ để qua năm mới đến đ̣i sợ “giông” người vay nợ. Ngược lại, các con nợ Tết đến cũng lo chạy đôn, chạy đáo để thanh toán tiền nợ của ḿnh v́ sợ để leo qua năm mới sẽ bị xui và sẽ bị mang nợ suốt cả năm

 

Cũ Quét Nhà
Vào ngày Tết người ta cữ quét nhà trong suốt ngày mồng một, mồng hai và mồng ba v́ sợ rằng quét nhà sẽ quét hết tiền bạc, của cải và các điều may mắn ra ngoài. Nều nhà có rác, ta chỉ quét sơ và gom vào một xó để chờ hết Tết rồi mới đem đi đổ.

Cữ Quần Áo
Trong những ngày Tết, người Việt ta cữ ăn mặc quần áo trắng hoặc đội khăn trắng v́ sợ trong năm sẽ có tang.

Cữ Ăn Nói
Vào những ngày đầu năm, người trong gia đ́nh phải hết sức thận trọng về “lời ăn tiếng nói”, chỉ nên dùng những lời lẽ đẹp và tránh những lời nói không hay như khỉ, chết, đau, ốm hay những lời nói tục tằn, chửi thề… để suốt năm không gặp những chuyện xui xẻo.

Cữ Đánh Con
Vào ngày Tết cha mẹ phải cữ đánh con cho dù rằng vào những ngày nầy con cái “phá như quỷ” cha mẹ cũng đành dằn ḷng v́ nếu đánh con trong những ngày Tết th́ con sẽ bị “huông”, nghĩa là suốt năm con sẽ bị đ̣n hoài.

 Cữ đi mua vôi

v́ vôi tượng trưng cho sự bạc bẽo, vong ân, bội nghĩa như ta thường nghe câu “ăn ở bạc như vôi” v́ thế dân gian có câu tục ngữ “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”

Kiêng kỵ 

 Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ư nghĩa rất thiêng liêng và gia đ́nh phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc; - Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà ḿnh v́ quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, nên giữ, không nên cho đi; - Kiêng cho nước đầu năm v́ nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc "tiền vào như nước", nếu cho nước th́ coi như mất lộc;-   - Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong); - Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... nếu không sẽ "xúi quẩy

Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết, kiêng mặc quần áo màu trắng và đen (màu của tang lễ);- ... ... ...


Ngoài các điều trên, thiên hạ c̣n kiêng cữ nhiều thứ khác trong ngày Tết như kiêng căi nhau, kiêng đánh lộn, kiêng gây tiếng động, kiêng làm vỡ chén bát, ly tách, kiêng tiếng khóc dù là tiếng khóc của trẻ con đ̣i bú sữa. Ngoài việc kiêng cữ những điều “xấu”, người ta c̣n phải làm những điều “tốt”, đó là tục lệ đi mua muối đầu năm. Muối tượng trưng cho sự đâm đà, mặn ṃi. .

 

Mâm Ngũ Quả

Mâm ngũ quả thường gồm thơm, đu đủ, dừa, xoài, trái sung. Phải thừa nhận rằng đa số nguời Việt Nam, nhất là giới b́nh dân mang nhiều sự mê tín, dị đoan rất dễ thương. V́ thế mâm ngũ quả chưng bàn thờ trong những ngày Tết người ta thường chọn những loại trái cây có tên tốt, mang ư nghĩa như thơm, đu đủ, dừa, xoài, sung… v́ theo họ, những loại hoa quả nầy tượng trưng cho một năm mới đầy thơm tho, tiền bạc trong nhà đầy đủ và cuộc sống sung túc.

 


Giao Thừa Và Lễ Trừ Tịch

Giao Thừa có nghĩa là cũ giao lại cho mới tiếp nhận. Hết giờ Hợi sang giờ Tư vào lúc nửa đêm 30 Tết là Giao Thừa, thiên hạ làm lễ Trừ Tịch tiễn vị thần năm cũ, đón vị thần năm mới c̣n được gọi là lễ “Tống Cựu, Nghinh Tân”. Theo cổ tục, người ta tin rằng từ năm Tư đến năm Hợi là 12 năm th́ có 12 vị thần Hành Khiển luân phiên nhau, mỗi năm một vị lo trông coi việc nhân gian v́ thế mà ta có lễ Trừ Tịch để tiễn đưa và đón các vị thần Hành Khiển của năm cũ và năm mới, đồng thời cầu cúng cả Bản Cảnh Thành Hoàng và Thổ Công Thần Kỳ mà ta có câu tục ngữ “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.

Lễ Trừ Tịch ở các làng xă c̣n giữ cổ tục, người ta thiết lập hương án ở trong trung thiên hoặc nơi sân đ́nh, cũng có khi ở ngă ba làng xă với vàng mă, hương, đèn, trầu, rượu, hoa quả, xôi gà tế lễ rất trọng thể. Trong khi tế lễ, họ đánh trống, khua chiêng, đốt pháo vang dậy trong giờ Giao Thừa. C̣n các tư gia cũng cúng lễ Giao Thừa trong sân hay trước cửa nhà với mâm lễ vật đặt trên bàn rồi vái tứ phương. Khi tới Giao Thừa chuông, trống ở các Đ́nh, Chùa, Giáo Đường khắp nơi cũng được đánh lên vang rền kèm theo tiếng pháo đón Giao Thừa nổ gịn giă. Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng pháo của giờ Giao Thừa là âm điệu truyền thống của ngày Tết.

Những kẻ đă từng nghe những âm điệu nầy trong quá khứ, nay v́ hoàn cảnh bắt buộc họ phải xa ĺa đất mẹ thân yêu, vào đêm Giao Thừa họ thường gục đầu im lặng để chờ nghe lại âm điệu ngày xưa, nhưng giờ Giao Thừa cứ lặng lẽ trôi qua và những âm điệu âu yếm kia vẫn biền biệt, khiến họ hụt hẫng, ḷng họ dâng trào niềm nuối tiếc và uất hận, rồi ḷng họ cảm thấy nghẹn ngào và đôi ḍng lệ tự nhiên tuôn trào thấm ướt bờ mi. V́ ai mà họ đă đánh mất kỷ niệm thân yêu nầy? V́ ai mà họ phải khóc trong những đêm Giao Thừa xa cố quận?


Về Giao Thừa, nữ sĩ Hô Xuân Hương có hai câu đối như sau:

Tối ba mươi khép cánh càn khôn,
Kẻo sợ ma vương đem quỷ tới.
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa,
Để cho thiếu nữ rước Xuân vào.

Tiền Của Vào Như Nước

Ở thành thị, phố phường ta có tục lệ sau giờ Giao Thừa, những người gánh nước mướn tự động gánh nước đến những nhà trong hàng xóm một vài đôi nước ngụ ư rằng năm mới gia chủ sẽ làm ăn phát đạt “tiền của vào như nước” và gia chủ vui vẻ thưởng tiền rất hậu. Cũng có những người buôn bán, vào những ngày cận Tết đă ân cần dặn trước những người gánh nước thuê đừng quên gánh nước đổ vào nhà cho ḿnh.


Đi Lễ Chùa, Giáo Đường Và Hái Lộc

Sau khi cúng Giao Thừa xong, thiên hạ làm lễ Thổ Công rồi sửa soạn đi lễ tại các Đền, Miếu, Đ́nh, Chùa, Giáo Đường để cầu phúc, cầu may cho năm mới. Ngoài mục đich đi lễ Phật, lễ Chúa, lễ các vị Thần Linh họ c̣n có dụng ư hái lộc và xin xăm. Hái lộc là một tục lệ nên thơ của người Việt Nam. Người ta tin rằng lộc là lộc của Trời v́ thế hái lộc đầu năm sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh vượng cho suốt một năm. V́ lẽ đó mà vào ngày đầu năm thiên hạ già, trẻ, trai, gái chen chúc nhau lên Chùa để hái lộc. C̣n xim xăm, đa số người Việt rất tin vào số mệnh nên song song với việc lên Chùa lễ Phật, hái lộc họ c̣n lên Chùa để xin xăm hầu biết vận mệnh của ḿnh và gia đ́nh ḿnh trong năm mới. H́nh thức xin xăm là sau khi van vái Trời, Phật với tất cả ḷng thành rồi người ta rút một thẻ xăm trong ống (hoăc lắc cho thẻ xăm rơi ra), đọan mang đến cho người đoán xăm, đôi khi là một thầy bói, đôi khi là một nhà sư để giải đoán dùm những ngụ ư trong quẻ xăm. Hầu hết những người lên Chùa xin xăm vào dịp đầu năm đều ra về với vẻ mặt “vui như ngày Tết” v́ những lá xăm của họ đều hứa hẹn những điều tốt đep.

Ở miền Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam

Người Việt ta hay tin dị-đoan:Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn th́ đó là một điềm may.Cây đào nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có h́nh dáng như bông hồng th́ sẽ có nhiều phúc lộc

 
 

 


Xông Nhà, Xông Đất

Theo cổ tục, vào đầu năm người đến nhà ai trước nhất là người “xông nhà, xông đất” cho gia chủ và thiên hạ tin rằng đầu năm mới được người vui vẻ, dễ tính, tốt nết hoặc những người có tên như: Thương, Mến, Hùng, Dũng, Đẹp, Giàu, Sang, Phú, Quư, Thịnh, Vượng, Tài, Báu, Lợi, Phước, Lộc, Thọ, Có, Tiền, Bạc, Vàng, Triệu, Tỷ, Thơm… đến nhà trước nhất th́ gia chủ sẽ được mọi chuyện tốt lành, đẹp đẽ, thịnh vượng, phú quư, may mắn quanh năm. C̣n ngược lại, gặp người khẳn tính, cộc cằn, độc ác, khờ dại, ngu ngơ, đần độn hoặc những người có tên như: Nghèo, Khổ, Xấu, Ghét, Ngu, Hư, Thúi, Chết, Xụi, Thua, Lỗ, Nợ, Nần, Túng, Thiếu, Đau, Ốm, Bệnh, Ghẻ, Chốc, Bại, Xụi, Bần, Hàn, Đói, Rách, Gian, Ác… th́ suốt năm gia chủ làm ăn lủng củng, thất bại hay gặp những chuyện vẩn vơ, bực ḿnh…. Chinh v́ vậy mà các cụ lớn tuổi hoặc những người c̣n mang nặng cổ tục rất kén chọn người đến xông nhà, xông đất, thường họ mượn người tốt nết, tinh t́nh dễ thương, có tên đẹp đến xông đất dùm. C̣n trong gia đ́nh, sau khi đi lễ Chùa, Nhà Thờ về là xông đất nhà ḿnh và gia đ́nh thường để cho người tốt nết nhất vào nhà trước.

Theo tục lệ, người đến xông đất đốt một phong pháo và chúc gia chủ mọi điều tốt lành, tùy theo trường hợp, lời chúc có thể:


• Nếu gia chủ có cha mẹ già th́ chúc “Tăng phúc, tăng thọ”
• Nếu gia chủ là nhà nông th́ chúc “Phong đăng ḥa cốc”
• Nếu gia chủ là một nhà công kỹ nghệ th́ chúc “Tốt tài sai lộc”
• Nếu gia chủ là một thương gia th́ chúc “Buôn may, bán đắt, nhất bản vạn lợi”
• Nếu gia chủ là một quân nhân hay công chức th́ chúc “Mau thăng quan, tiến chức”

Trong trường hợp chẳng may gặp người xấu nết, tính t́nh cộc cằn hay xui hơn nữa bị một lăo ăn mày đến viếng đầu năm th́ gia chủ phải lấy gạo, muối ra văi tứ phía và cúng vái gọi là “đốt phong long” rồi chờ một người khác khá hơn đến “tái xông”

Mừng Tuổi Và Chúc Xuân

Một trong những tục lệ đẹp đẽ nhất của người Việt Nam là mừng tuổi ông bà, cha mẹ vào dịp đầu Xuân. Đây là một h́nh thức hiếu đạo của con cháu đối với công ơn dưỡng dục của các đấng sinh thành đă nuôi dưỡng nên minh mà chỉ Việt Nam mới hănh diện có cổ tục nầy trên thế giới ngày nay.

Mừng tuổi là mừng ông bà, cha mẹ thọ thêm một tuổi. Sáng mồng một Tết, sau khi ông bà, cha mẹ khăn áo chỉnh tề, con cháu cũng xúng xính trong những bộ quần áo mới, trải chiếu xuống đất lạy 2 lạy đồng thời chúc ông bà, cha mẹ những lời tốt đẹp, hiếu thảo. Ông bà, cha mẹ cũng chúc lại con cháu ngoan ngoăn, thông minh, chóng lớn, học hành mau đỗ đạt rồi cho con cháu những tờ giấy bạc mới đựng trong những phong b́ màu đỏ gọi là tiền “ĺ x́”, có nghĩa là những đồng tiền may mắn.


Ngoài tục lệ mừng tuổi, vào ngày Tết thiên hạ c̣n có lệ chúc Tết lẫn nhau. Nếu ở xa người ta gởi thiệp, c̣n nếu ở gần bạn bè, họ hàng thăm viếng và chúc Tết với nhau. Những lời chúc thông dụng là “Phước, Lộc, Thọ”, “An Khang, Thịnh Vượng”, “Vạn Sự Như Ư”, “Sống Lâu Trăm Tuổi”, “Tân Xuân Vạn Hạnh”, “Con Đàn, Cháu Lũ”, “Tiền Vào Như Nước”, “Tiền Rừng Bạc Biển”, “Đa Tài, Đa Lộc”, “Mau Thăng Quan, Tiến Chức”…

Ngoài việc họ hàng, bạn bè thăm viếng chúc Tết lẫn nhau, các nhân viên thuộc quyền ở các Ty, Sở, Đơn Vị vào ngày Tết cũng có lệ đến chúc Tết các xếp của ḿnh. Kèm theo những lời chúc Tết đẹp nhất, họ c̣n có “quà biếu” cho các xếp họ nữa. Xin hăy nghe bài “Chúc Tết” của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương:

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau: Trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen nầy ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giă trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,
Trăm, ngh́n, vạn, mớ để vào đâu.
Phen nầy ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi lọ phải cầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,
Đứa th́ mua tước, đứa mua quan.
Phen nầy ông quyết đi buôn lộng,
Vừa bán, vừa la cũng đắt hàng.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con,
Sinh năm, đẻ bảy được vuông tṛn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.

 

Bói Toán

Vào ngày đầu năm người Việt ta thích đi xem bói toán để biết vận mệnh của ḿnh trong năm mới. Bói toán có nhiều cách, như bói Kiều, bói sách, bói tuồng, nhờ thầy bói xem bói dùm… Bói Kiều là lấy cuốn Kiều ra để trên bàn, sau khi thắp hương đèn và khấn vái Nguyễn Du, Thúy Kiều, Kim Trọng rồi người ta lật bất cứ trang nào của Kiều ra xem, những câu thơ sau đây được xem là tốt:

Dưới ḍng suối chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Gương nga chênh chếch ḍm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.

Đầu năm mà gặp nước, gặp cầu, gặp vàng th́ không có ǵ may mắn, hạnh phước cho bằng. Nước tượng trưng cho tiền bạc nên ta có câu thành ngữ “tiền vào như nước”, c̣n cây cầu tượng trưng cho sự thông giao, sự liên lạc, sự đoàn tụ và vàng tượng trưng cho sự giàu sang, phú quư.

 
 


Ngược lại những câu thơ sau đây được xem là điềm xấu:

Hàn huyên chưa kịp giăi giề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao,
Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lăo một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm t́nh.

Hoặc:

Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.

Đầu năm bói Kiều mà gặp cảnh gia đ́nh tan nát, phân ly hay gặp cảnh “Sầu đong càng lắc càng đây” như trên th́ người ta tin rằng đó là điềm xui xẻo.

Bói sách cũng tương tự như bói Kiều, c̣n bói tuồng là ngày Tết ta chọn tuồng hát để xem, nếu xem nhằm tuồng kết thúc cốt chuyện bằng sự sum họp, thắng lợi, hạnh phúc, giàu có là điềm may. C̣n nếu tuồng hát kết thúc bằng cảnh gia đ́nh tan nát, chia ly, chết chóc là điềm không tốt. Ngoài việc bói Kiều, bói sách, bói tuồng, thiên hạ c̣n t́m đến các thầy bói để nhờ xem dùm vận mệnh, t́nh duyên, công ăn, việc làm của ḿnh trong năm mới.

Khai Bút

Vào dịp đầu Xuân, người Việt Nam ta có tục lệ tao nhă khác đó là tục lệ Khai But đầu năm. Khai Bút là năm mới cầm bút viết lần đâu tiên. Những người thường hay viết lách như các cụ đồ, các nhà khoa giáp, các văn nhân thi sĩ, các nhà báo vào dịp đầu Xuân chọn ngày giờ tốt lấy giấy mực ra làm thơ, viết văn, ngâm vịnh và thưởng Xuân.

 

 

   Tục cúng  Táo Quân

 

Tục này cử hành vào ngày  23 tháng chạp mỗi năm.  Ngày đó Táo quân về Trời đem việc thiện việc ác của dân gian tâu lên Trời.  Theo tục lệ, người ta mua cá chép làm lễ để Táo quân  cưỡi  lên  trời.   Để vua bếp phù trợ cho ḿnh  được nhiều may mắn trong năm mới, mỗi nhà đều làm cơm  cúng  tiễn Táo quân về Trời chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế.  Người ta cũng cúng mũ và áo mă để Táo quân mặc. Khi cúng mũ và áo mă th́ mầu những đồ này thay đổi hàng năm theo ngũ hành. Nếu vào năm hành kim th́ áo mũ phải là mầu vàng, hành mộc th́ mầu trắng, hành thuỷ th́ mầu xanh, hành  hỏa th́ mầu đỏ, hành thổ th́ mầu đen. Vào dịp cúng Táo Quân , người ta cũng thả  trong chậu nước một hoặc  ba con cá chép để Táo quân cưỡi về Thiên đ́nh.  Nếu nhà có trẻ con, th́ cúng Táo quân thêm một con gà luộc ( gà cồ mới tập gáy) ngụ ư nhờ Táo quân xin Ngọc Ḥang  Thượng Đế cho đứa trẻ sau này có nghị lực  và sinh khí hiên ngang nhu gà cồ.Tục này cử hành vào ngày  23 tháng chạp mỗi năm.  Ngày đó Táo quân về Trời đem việc thiện việc ác của dân gian tâu lên Trời. 


 Ông Táo là cái bếp nấu cơm trong mọi gia đ́nh.

 
   

 

         Tục trồng cây nêu

 

   Vào ngày  23 tháng chạp âm lịch, ngày mà Táo quân  về trời, người ta trồng nây nêu ở chùa, đ́nh làng, và đôi khi ở trước  cửa nhà các gia đ́nh.  Chính v́ từ ngày này cho tới đêm giao thừa vắng mặt Táo quân,  ma quỷ thường nhân cơ hội quấy nhiễu, mà cây nêu được trồng  lên để trừ  tà ma.. Theo sự tích xưa, làng xóm và chùa chiền hay bị ma quỷ  quẫy nhiễu vào dịp Tết nên người Việt thường quen cầu khẩn Phật che chở.  Phật liền hiện ra và bắt lũ quỷ. Chúng van lạy xin tha và hứa sẽ không quấy phá nữa.. Phật tha cho bọn chúng và căn dặn chúng không nên bén bảng đến  những vùng đất có dấu tích của  Phật.  Rồi Phật dậy người ta dựng cây nêu cột phướn và rắc vôi  trắng xung quanh  để đánh dấu phần đất quỷ phải tránh xa.  Nêu là một cây tre hay cây bương .  Ở ngọn, người ta đeo một ṿng   tṛn nhỏ có buộc nhiều thứ như bùa trừ tà, cành xương rồng, giải cờ vải tây điều ( mầu đỏ), đôi khi c̣n treo lủng lẳng những chiếc khánh  nhỏ bằng đất nung nữa, để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được đến quấy nhiễu.  Ở ngọn cây nêu, người ta cũng  treo một ṿng tṛn nhỏ  thứ hai buộc nhiều thứ chẳng hạn  vàng mă, bầu rượu bện bằng rơm và h́nh cá chép bằng giấy để Táo quân  dùng làm phương tiện  về Trời. Đặc biệt cũng trên cây nêu, người ta treo một lồng đèn để vào buổi tối Tổ Tiên  biết đường mà về  nhà ăn Tết với con cháu.  Trước đây, vào đêm trừ tịch cũng như vào ngày mồng một Tết, người ta c̣n đốt pháo ở cây nêu, để mừng Tổ Tiên về ăn Tết

Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè.
  

 
 

 

      Tục tảo mộ và cúng cơm

  Tục này làm trước mộ Tổ Tiên vào ngày 30 Tết.  Nó cũng được gọi là tục rước vong linh  ông bà. Người ta làm lễ cúng tất niên đồng thời đón rước ông bà hoặc người thân quá cố  về sum họp với gia đ́nh trong những ngày Xuân. Qua đến ngày mồng bốn, người ta tiễn đưa vong linh ông bà về phương cũ. Tục Tảo mộ và cúng cơm người Việt làm vào dịp Tết, c̣n ở Trung Quốc, người  Tầu  làm vào tháng ba, căn cứ vào câu thơ truyện Kiều của của Thi sĩ Nguyễn Du:

Thanh Minh trong  tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

Các gia đ́nh người Việt thường tụ họp ở nghĩa trang để sửa sang, quét dọn phần mộ của tổ tiên và những thân quyến quá cố.  Họ đem hương hoa lễ vật bầy ở mộ và cung thỉnh hương hồn những người quá văng  về nhà ăn Tết cùng với  con cháu Riêng người theo đạo Thiên Chúa  dù là người miền Bắc, dù là người miền Nam c̣n có tục dành trọn ngày mồng  hai Tết cho tổ tiên đă khuất bóng.  Buổi sáng họ đi lễ tại giáo đường, chiều đi đến nghĩa trang thăm mồ mả, sửa sang cho phần mộ đẹp và sạch sẽ, rồi đứng trước mộ đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ và những người trong họ hàng đă chết, để xin Thiên Chúa chóng đem linh hồn các vị về hưởng nhan thánh Thiên Chúa

Sau lễ rước vong linh ông bà về ăn Tết th́ đến tục cúng cơm.  Tục này kéo dài suốt trong các ngày Tết cho tới ngày hạ nêu.  Họ bày ra các thức ăn và trái cây trên bàn thờ Tổ Tiên, vào chiều ba mươi tháng chạp..  Vào những ngày này, người Việt thường làm các món ăn truyền thống để cúng tổ tiên ông bà cha mẹ.  Những món ăn đó không c̣n mang tính phàm tục hàng ngày nghĩa là ăn để no- mà mang tính linh thiêng, huyền bí.  Những  món ăn ngon nhất này, lạ nhất này được làm để mời tổ tiên thưởng thức, c̣n con cháu chỉ được ăn sau khi đă cúng các cụ. Tổ tiên bao gồm ông bà cha mẹ và các người trong họ đă qua đời.  Tục cúng cơm cho Tổ tiên cũng được thưc hiện  vào các dịp có đám đ2nh lớn trong gia đ́nh

      Tục múa Lân

Từ lâu đời dân tộc Việt hầu như ai cũng tin rằng Tết Nguyên Đán nếu được Lân tới giúp vui, th́ bao nhiệu chuyện xui xẻo buồn bực của năm cũ sẽ tan biến trước cái uy vũ phi thường của Lân, đồng thời mùa xuân hạnh phúc may mắn dào dạt tới mọi nhà.  Múa Lân mang tính cách nghệ thuật rất cao.  Nguồn gốc và phong tục múa Lân theo những truyền thuyết dưới đây.

Truyền thuyết Phật Giáo: 

Cách đây 2500 năm đời vua Chu Linh Vương, thời chiến Quốc bên Tầu, Đức Phật Di-Lặc đă thuần hóa con Kỳ Lân bằng cỏ Lan Chi. Kỳ đó con Kỳ Lân rất dữ giết hại dân lành.  Sau khi thuần hóa, nó trở thành một linh vật, phù trợ người đời, được coi như một biểu tượng của đức từ bi và ḷng nhân ái.

Truyền thuyết Khổng Giáo

Theo kinh Xuân Thu th́ Lân là con vật có một sừng ở trước trán, rất hiền lành, không bao giờ sát sinh ăn các loại thịt sống, chẳng bao giờ làm hại cây cỏ thực vật.Theo truyền thuyết, th́ trước khi Đức Khổng Tử ra đời đă có một con kỳ Lân xuất hiện , như là điềm báo trước sự xuất hiện của một kỳ nhân. V́ vậy, sau này và măi măi, Đức Khổng Tử được nhân loại tôn xưng là Vạn Thế Sư Biểu.Theo Kinh Thi, khi bà Nhan Thị sinh Đức Khổng Tử, th́ có Kỳ Lân xuất hiện  tại nước Lỗ.  Rồi hai năm trước khi qua đời, lúc đang viết pho Xuân Thu, Đức Khổng Tử được tin một người tiều phu bắt được một con Kỳ Lân bị thương một chân.  Do đó, Ngài gác bút không viết nữa, v́ vậy Kinh Xuân Thu  sau này c̣n được gọi là Lân Kinh  hay Lân Sử.  Trước khi mất, Đức Khổng Tử đă chiêm bao thấy một con Kỳ Lân  đang dẫy chết.  Lúc thức giấc, Ngài đă than rằng mạng ta sắp hết.  Quả thế, Ngài tạ thế vào hai năm sau.

Truyền thuyết Ấn Giáo

Kỳ Lân được tôn thờ vào khoảng   1300 năm  trước Tây Lịch.  Điều này có ghi rơ trong các kinh sách  Veda viết bằng phạn ngữ:  Lân là hóa thân  của nhiều vị thần minh trong đó có hai vị thần Shiva và Vishnu.

Truyền thuyết Thiên Chúa Giáo

Tiên Tri ( Ngôn Sứ)  Ezekiel trong Cựu Ước ( Ezekiel 1:4-14) và thánh  Gio-an Tông Đồ trong sách Khải Huyền (Kh4:1-11) có xuất thần thị kiến  thấy những con vật thuộc loại Kỳ Lân  theo xa giá của Thiên Chúa để chầu chục Ngài.

 

Lư do phát sinh tục múa Lân  trong những ngày Tết Nguyên Đán

Huyền thoại kể rằng Kỳ Lân  có tên là Ly hay Nghê.  Ông Huỳnh tịnh Của tác giả  cuốn  Quốc Âm Tự Vị viết rằng  Lân là con cái, Kỳ là con đực.  Kỳ Lân  xuất thế th́ thiên hạ thái b́nh, v́ xuất hiện đồng thời các đấng minh quân , thánh  Chúa và những bậc hiền tài.  Nó là một biểu tượng uy quyền tuyệt đối của  đấng  Thượng Đế,  Trời, Phật.  Nó dùng cái sừng  nhọn  chọc thẳng mây xanh để đem nước mưa từ trời tuốn xuống thế gian, làm hồi sinh đất đai, thảo mộc và sự sống của con người.  Sử Liệu Trung Hoa  có ghi rằng Kỳ Lân được gọi là Kilin. Kỳ Lân là  linh vật được Trời  sai xuống  cơi nhân gian, tạo cho nó một sừng nhọn với phép thần thông để diệt trừ những phường gian ác, bọn bạo chúa, tham quan huỷ hoại đạo đức xă hội.

Theo ông  Huỳnh tịnh Của, th́ tục múa Lân  ngày Tết  c̣n nhằm tôn vinh nữ giới, chúc  mừng sự sinh sôi nảy nở truyền giống trong xă hội dân gian.

Để múa Lân, th́ ngoài Kỳ Lân ra, c̣n có ông Địa và Trống. Vai tṛ ông Địa và Trống  trong tục múa Lân th́ thật là quan trọng.  Nếu múa Lân mà không có ông Địa th́ kém phần hào hứng.  Đó là cặp bài trùng.  Nụ cười toe toét của ông Địa có tác dụng làm tiêu tan hay vơi đi phần nào nỗi sầu muộn  của thế nhân trong cuộc sống bon chen cơm áo hàng ngày. . Có sự tích ông Địa cỡi cọp, sự tích này chịu ảnh hưởng qua truyền thuyết tín ngưỡng đạo giáo dân gian của nhóm Triệu Công Minh ngành Lăo Giáo suy thoái, được ghi trong truyện  Phong Thần.  Theo sự tích, th́  Trương Thiền Sư, vị sáng lập đạo giáo dân gian cỡi cọp.  Hứng từ đó, người Việt sáng tạo thêm  vị Thần Thổ Địa cỡi cọp với ngụ ư rằng có hung dữ  thế nào,  cọp rốt cục cũng bị  con người chế ngự.

Nếu múa Lân mà không có Trống , th́ làm sao Lân hứng khởi được.  Trống dùng để  múa Lân  phải thuộc loại Cổ Bể, bịt kín bằng  da trâu hay ḅ, chính giữa mặt trống có vẽ biểu tượng  Âm Dương, tượng trưng cho trời đất.  Trống chuyên chở ư nghĩa con người mong mỏi sự thái b́nh  thịnh trị của non nước và niềm hạnh phúc ấm no của muôn dân

Tục múa Lân  được thay thế bằng tục múa  Hẩu ( Sư Tử) hay Kim Sư ( Sư Tử vàng) ở miền Bắc và ở tỉnh B́nh Dương.  Hẩu hay Kim Sư là vua của muôn loài, một biểu tượng trong các h́nh tượng của Phật Giáo.  Hẩu là hóa thân của Phật Bà Quan Âm được thờ kính  tại khắp các đ́nh làng trung Hoa và Việt Nam.  Đây cũng là   con vật cỡi của  Từ Hàng  Đạo Nhân  trong ngành Lăo Giáo suy thoái.  Múa Hẩu được thực hiện  trong các lễ cúng giỗ vị thần bảo hộ của người Việt gốc Hoa thuộc  bang  Phúc Kiến .

( xin click   Phong Tục  cưới hỏi  hoặc  Phong tục  Tang Chế)