Đạo Trời và Sùng bái Tổ Tiên

   

 Khoa khảo cổ cho biết rằng người Việt sơ  khai dần dà nghĩ  tới quyền lực siêu nhiên  cao hơn các Thần Minh nữa.  Những kinh nghiệm nông nghiệp đă cho họ sự suy nghĩ đó..  Quả thực từ lănh vực nghề nông, họ dần dà nghiệm thấy ngày đêm đều đặn thay nhau, mặt trời mặt trăng lặn rồi mọc  theo chu kỳ nhất định, và bốn mùa luân chuyển  điều ḥa không hề sai lạc.  Các hiện tượng  thiên nhiên này gợi cho họ tin có một  đấng cai quản vũ trụ.  Đấng ấy họ gọi là Ông Trời    Ông Trời tạo dựng vũ trụ, tạo dựng các loài vật hung dữ, tạo dựng các Thần Minh và tạo dựng con người.  Ngài được gọi là Đấng Hóa Công.  Đây câu thơ của thi hào Nguyễn Du:

                     Phũ phàng  chi bấy Hóa Công

Ngày  xanh ṃn mỏi  má hồng phôi pha

Người Việt tin các hiện tượng  băo táp, phong ba, sấm sét... chính là sức mạnh oai quyền của Ông Trời mà thôi.  Ông Trời  cầm số phận con người trong tay. Các Thần Minh chỉ là những đồ đệ để Ông Trời sai khiến mà thôi.  Như vậy đạo thờ Ông Trời của người Việt đă có từ thời thượng cổ.  Cũng từ thời thượng cổ, người Việt đă tin có thế giới vô h́nh. Con cái của Tổ Tiên Việt tự hào về đạo Trời và nhận quyền uy của Ông Trời trong những câu ca dao dưới đây:

Dù ai nói ngược nói xuôi,

Ta đây vốn giữ đạo Trời khăng khăng.

 Khoa khảo cổ  cho biết rằng khởi thuỷ người Việt thượng cổ nghiệm thấy cơn mộng mị trong lúc ngủ và hiện tượng chết rồi lại tỉnh. Từ cảm nghiện đó, họ phát sinh ra ư niệm linh hồn khác thể xác.  Khi bất tỉnh th́ hồn ĺa  thân thể trong chốc lát.  Khi chết th́ hồn  ĺa khỏi thân xác.  Xác chết mà hồn không chết.  Khi con người chết, th́ vong hồn ( linh hồn người chết) không bị tiêu diệt  nên hằng  liên hệ cảm thông với kẻ c̣n sống nhất là giữa những người thân thích

Vignette extraite de Derrière la haie de bambous de Vink - ed. du Lombard, Bruxelles, 1983

Nông  nghiệp  là một nghề chính của dân Việt ngay từ thời   h́nh thành Xă Hội Việt .  Nó là một nghề nặng nhọc  cần nhiều nhân lực, nên tổ tiên  người Việt   thường sinh ra nhiều con và thành lập  đại gia đ́nh  đông con. Trong gia đ́nh  đông con, khi cha mẹ chết  đi, th́ người Việt vẫn tin rằng  vong hồn cha mẹ tuy âm dương hai đường khác nhau song vẫn  thường dự vào cuộc sống của con cháu, của gia đ́nh khi con cháu có điều vui điều buồn điều lo sợ  trong đời sống nông nghiệp nặng nhọc .

Tổ Tiên  thường phù hộ  cho con cháu nên đôi khi cũng báo mộng  cho con cháu biết mà đề pḥng tai ách..  Cha mẹ lúc sống  là ân nhân thứ nhất của ḿnh, nên con cháu phải kính hiếu để tỏ ḷng biết ơn, lúc chết đi cũng phải sùng bái không những để tỏ ḷng biết ơn mà c̣n mong các ngài khôn thiêng phù hộ cho nữa  Như vậy, Đạo Sùng Bái Tổ Tiên  của người Việt có từ thời kỳ  nông nghiệp manh nha.

 

        Đạo Trời và Tổ Tiên sẵn sàng liên kết với các tôn giáo 

                                       để xây dựng xă hội Việt 

 

Sống bằng nghề nông,  con cái bám  vào bố mẹ, bố mẹ bám vào ông bà để cùng nhau sống và dùm bọc lẫn nhau .V́  nông nghiệp là  một nghề cần nước  và thời tiết tốt th́ người nông gia mới được mùa, mà nước và thời tiết  tốt  vượt quá khả năng của con người,   Khi thiếu nước cày ruộng  th́ người ta cầu Trời mưa nước xuống. Trời và  Tổ Tiên  phải được tôn kính  và biết ơn.   Tôn kính và biết ơn là những  t́nh cảm  đặc biệt của người Việt xưa và nay đối với Trời và Tổ Tiên . T́nh cảm đó  lan ra mọi người trong gia đ́nh  từ vợ chồng con cái, cháu chắt, anh em ruột thịt cho tới những người khác ngoài gia đ́nh , v́ người ta cảm thấy ḿnh không thể sống lẻ loi mà không cần giúp đỡ lẫn nhau.

T́nh cảm của đạo Sùng bái Tổ Tiên rất mạnh đến nỗi nó chi phối guồng máy cai trị đất nước từ thời kỳ  thành lập nước Văn Lang đầu tiên  của dân tộc Việt. Lịch sử cho biết  rằng nền hành chánh nước Văn Lang dưới triều đại các vua Hùng Vương là một nền hành chánh tản quyền.  Mặc dầu có quyền  cao nhất trên đất nước, nhưng vua chia quyền  cho các tộc, phong các tộc trưởng làm  Lạc Hầu Lạc Tướng trực tiếp  cai trị người của ḿnh. Các tộc  chính là  h́nh thức  của xă hội gia đ́nh lớn hoặc nhỏ.  Trong xă hội gia đ́nh lớn nhỏ này, t́nh cảm chi phối mọi hoạt động.  Có thể nói nền hành chánh người Việt xa  xưa nặng về nhân bản và t́nh người. Có thể nói rằng  ư thức hệ dân Việt ngay từ xa xưa là ư thức hệ nhân bản lấy người làm trọng.

Chính v́ lấy con người làm trọng nên ngay từ nguồn Văn hóa  Việt sẵn tinh thần bao dung, mở cửa tiếp thu những tư tưởng tốt đẹp phục vụ cho con người bất cứ từ đâu tới, miễn là đem hạnh phúc cho số phận con người.  Ngay từ  những thế kỷ đầu Tây Lịch, Văn hóa Việt  đă đón nhận  Khổng Giáo Lảo Giáo Phật Giáo và Ấn Giáo v́ cùng một cứu cánh  phụng sự con người cùng  ư hướng thăng hóa tư tưởng tâm linh con người nên tốt,  làm vơi đi những khổ đau do sự tranh dành quyền lợi và quyền hành.   Về sau này, Văn hóa Việt lại một lần nữa, nhận Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo để tiếp thu những khía cạnh mới của nhân bản ngơ hầu phong phú hóa t́nh cảm tha nhân  của ḿnh và thăng hóa  giá trị con người.   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

    

            Văn hoá Việt chịu ảnh hưởng tôn giáo ngoại nhập 

 

Nguời Việt nói chung th́ đều  thờ Trời và tôn kính tổ tiên, lấy chữ Hiếu thảo làm mẫu mực cuộc sống. Đạo này xuất phát từ ḍng máu người Việt.     Ngoài ra   người Việt  c̣n có những niềm tin khác nhau, những niềm tin này  xuất phát từ những nguồn gốc khác nhau. Người có niềm tin này, người có niềm tin kia.   Trước năm 1069, khi   đất Việt  c̣n  quốc  hiệu Đại Việt   miền Bắc tiếp cận Trung Quốc, miền Nam  ranh giới tới Đèo ngang  tiếp giáp với nước Chiêm Thành, th́  người Việt  chịu ảnh hưởng  đạo Phật ngành Đại Thừa  về mặt tâm linh, chịu ảnh  hưởng Nho Giáo về mặt luân lư  giao tế  xă hội, chịu ảnh  hưởng  Lăo  Giáo về mặt lối sống, chịu ảnh  hưởng Đạo Giáo Dân Gian về mặt mê tín dị đoan.

Tất cả những tôn giáo này đều được nhập cảng từ Trung Hoa trong ḍng thời gian Bắc Thuộc hơn ngàn năm từ năm 111 trước Công Nguyên tới năm 939 sau Công Nguyên . Hiện nay trong ngành kiến trúc nhà cửa  có các loại cửa sổ  h́nh bông sen của Phật Giáo được phổ cập tại Việt  Nam                                                                                            Chùa Dâu Bắc Ninh (xây thế kỉ 3)

 Sau năm  1069,  đất Việt  bành trướng xuống miền  Nam từ thời vua Lư Thánh Tôn, vượt  qua ranh giới  Đèo Ngang, tới tận Cà Mau  vào năm 1802 dưới thời  Chúa Nguyễn Phước  Ánh.  Trong thời gian  bành trướng này,  vương quốc Chiêm Thành  kéo dài từ Đèo ngang  tới miền Đông Nam Bộ  sát nhập vào đất Việt,  th́ Văn Hóa Ấn Giáo của  Chiêm Thành  sát nhập vào Văn Hóa Việt. 

Người Việt Quảng Nam,  người Việt Nha trang, người Việt Phan Thiết, người Việt Tây Ninh  vvv... chịu ảnh  hưởng Hồi Giáo  và  Ấn Giáo  rất nhiều. Đến khi  vùng Nam Bộ của vương quốc Chân Lạp  sát nhập đất Việt vào năm 1802 th́   Văn  Hóa Chân Lạp gồm  đạo Phật ngành Tiểu Thừa  và Ấn Giáo cũng sát nhập vào Văn  Hóa Việt                           Tháp Chàm taị Mỹ Sơn thờ thần Shiva Ấn Giáo

 

Vào thế kỷ 16,  Thiên Chúa Giáo  du nhập  đất Việt, Văn hóa Việt lại sẵn sàng đón nhận. Hiện nay con số người Việt  thấm nhuần  luồng tư tưởng  tôn giáo này  lên tới 8 triệu người.

Thiên Chúa Giáo  đem vào Văn hóa Việt lối kiến trúc  Gothic, một lối kiến trúc đặc trưng của người Châu Âu để xây dựng  nhà thờ và cung điện  ( gothic: phần chính diện  được trang trí bằng những khung ô đối xứng,các bông gió  trang trí, và những hoa văn họa tiết, cổng ṿm nhọn)   Nhà thờ Ḷng Sông ở thôn Sanh Phương, xă Phước Sơn, huyện Tuy Phước, B́nh Định  được xây dựng  theo lối kiến trúc này

( Các quí vị  có thể   click Phật Giáo,  click Nho Giáovà  click Thiên Chúa Giáo nếu các quí vị  muốn t́m hiểu mỗi  tôn giáo.