Khi người ta nói   văn, th́ người ta  có ư  hiểu là  văn xuôi .

Văn xuôi  xưa kia  viết bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Nôm, nhưng ngày nay viết bằng chữ Quốc Ngữ.  Chữ Hán tức chữ nho được dùng v́ chịu ảnh hưởng  của một ngàn năm đô hộ của người Tầu. Chữ Nôm  là lối chữ  viết mượn  dạng chữ Hán và biến cải để làm chữ  tượng trưng cho ngôn ngữ Việt.  Không xác định  được từ lú nào và do ai đă sáng tác ra chữ Nôm, chỉ biết  rằng được dùng ngay trong thời kỳ  bị Tầu đô hộ.  C̣n chữ Quốc ngữ th́ được giáo sỹ Alexandre de  Rhodes và nhóm giáo sỹ  của ngài dùng  mẫu tự La-tinh mà sáng tác ra.  Văn xuôi thường dùng để viết các đề tài như diễn văn, phúng điếu, thư từ, công văn, kể truyện. Người ta dùng văn xuôi để viết các tác phẩm bàn về mọi vấn đề  tâm sinh lư, khoa học tôn giáo. Những người viết văn xuôi được gọi là  các văn sĩ : văn sĩ miền Bắc và văn sĩ miền Nam

 

    Văn sĩ miền Bắc:

               Tự Lực Văn Đoàn

 

Tự Lực Văn Đoàn  do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Trường Tam chủ xướng. Văn đoàn này  ghi một  giai đoạn mới quan trong trong  nền văn học  nước Việt từ đầu thập niên 1930 đến  1945.  Văn đoàn có công làm phong phú  hóa nền văn học  nước Việt  ở  thế kỷ 20.  Các tác phẩm của Văn đoàn nhằm ba mục đích chính: chính trị, xă hội và văn chương, khai triển  các chủ đề  hướng về đời sống  xă hội nhân sinh, cải cách và  xây dựng  xứ  sở, đề cao t́nh cảm đẹp về quê hương, dân tộc, cổ vơ tinh thần tự lập, tínyh vị tha, tôn trọng nhân phẩm. Về lănh vục văn chương,th́ Văn đoàn  nhấn mạnh sự trong sáng và giản dị, đồng thời đả phá  những hủ tục và tệ nạn xă hội như quan lieu và  cường hào..

 

Các thành viên trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn lúc đầu gồm một số  các cây bút trong ṭa soạn báo Phong Hóa rồi sau thêm một số người. . Theo như bản thảo " Đời làm báo" của Nhất Linh  th́ có 7 thành viên:

 

1-Nguyễnh Trường Tam bút hiệu Nhất Linh.

2-Trần Khánh Dư bút hiệu  Khái Hưng

3-Nguyễn Tường Long bút hiệu Hoàng Đạo

4--Nguyễn Thứ Lễ bút hiệu Thế Lữ

5- Nguyễn Tường Lân bút hiệu  Thạch Lam

6-Hồ Trọng Hiếu bút hiệu Tú Mỡ

7-Ngô Xuân Diệu bút hiệu Xuân Diệu

 

Phần lớn các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn  đều viết bằng văn xuôi. V́ chủ trương con đường văn học thăng tiến nền văn hóa nước Việt  nên các tác phẩm viết bằng văn xuôi thường là các tiểu thuyết  luận đề,  tâm lư xă hội… nhằm phổ biến những tư tưỡng mới.

Sau đây xin liệt kê một số tác phẩm  văn xuôi của những thành viên của Tự Lực Văn Đoàn

Tác phẩm của Nhất Linh: Nho Phong, Anh Phải Sống, Gánh Hàng Hoa, Đoạn Tuyệt , Lạnh Lùng, Đôi Bạn, Bướm Trắng.

Tác phẩm của Khái Hưng: Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Tiêu Sơn Tráng  Sỹ, Trống Mái, Đẹp, Cái Ấm Đất, Anh Phải sống, Gánh Hàng Hoa  ( Nhất Linh và  Khái Hưng viết chung hai sách này).

Tác Phẩm của Hoàng Đạo: Trước Vành Móng Ngựa, Mười Điều Tâm Niệm, Con Đường  Sáng, Tiếng Đàn

Tác phẩm của  Thạch Lam: Gió Đầu Mùa, Nắng TrongVườn, Sợi Tóc,Theo Gịng, Hà nội 36 Phố Phường , Ngày mới.

 

Phạm xuân Khuyến

 

  ( mời coi truyện ngắn của   Thế Lữ và của Thạch Lam) xin click

 
   

        Văn sĩ miền Nam : các Văn Sĩ Độc Lập 

            Nguyễn Trọng Quản 

Nguyễn Trọng Quản là nhà giáo và viết báo tại sài G̣n vào những năm cuối thế kỷ XIX. Ông đă cộng tác viết bài cho tờ Gia Định Báo và minh họa các sách như Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân (1910) của Trương Duy Toản.

Nguyễn Trọng Quản là học tṛ và sau thành con rễ của Trương Vĩnh Kư, học trung học ở Lycée d'Alger (Bắc Phi) cùng lớp với Diệp Văn Cương và Trương Minh Kư, sau về nước làm hiệu trưỡng tiểu học ở Sàig̣n.

Nguyễn Trọng Quản  là tác giả truyện Thầy Lazaro Phiền.   Ngoài   truyện nói trên, ông c̣n viết Truyện Bốn Anh Chà-Và, Truyện Tầm Phào Chẳng Nên Đọc và Truyện Kim Vọng Phu .

Đôi lời giới thiệu
Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam. Viết bằng chữ quốc ngữ, tác phẩm do nhà J. Linage, Libraire-Éditeur đường Catinat Sài G̣n xuất bản năm 1887 lần đầu tiên.. Tác giả là người Công Giáo  viết trong thời gian giáo dân c̣n rất ít, và truyện Truyện ngắn này có rất nhiều chi tiết và các vai chính là các nhân vật Công Giáo.
Truyện ngắn này có thể là truyện ngắn viết theo lối Tây phương sớm hơn cả, và chắc chắn sớm hơn truyện Tố Tâm cuả Hoàng Ngọc Phách (1924). Sự nh́n nhận này bắt đầu từ miền Nam, ra miền Bắc –qua sự xác nhận chính thức cuả nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội (1995) trong Từ Điển Văn Học Việt Nam cuả Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (trang 313-314).. Truyện ngắn Thầy Lazaro Phiền  là cuốn tiểu-thuyết văn xuôi và bằng chữ quốc ngữ đầu tiên dược viết năm 1886 và được xuất bản vào năm 1887. Dù chỉ gồm 28 trang, khổ 12 x 19 cm, tác phẩm đă có đủ tiêu chuẩn của một tiểu thuyết: một câu chuyện liên tục, t́nh tiết gây cấn, có phân tích tâm lư, đối thoại, nhân vật có cá tính. Vai chính là một người đàn ông quá ghen thành mù quáng và bất công với người yêu.

 Năm 1987, kỷ niệm 100 năm ngày ra đời cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của văn học Việt Nam - Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản 

Xin đọc truyện Thầy Lazaro Phiền  ( click)  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

   

           Hồ Biểu Chánh

Hồ Biểu Chánh (1884–1958), tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên-(khai sanh ghi 01.10.1885) tại B́nh Thành, G̣ Công. Ông là con nhà nghèo ở nông thôn lúc nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho Sài G̣n, xuất thân làm kư lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ, từng giữ chức quận trưởng.   Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Cuối năm 1946 từ giă chính trường, ông sống hưu nhàn với sự nghiệp văn chương.     

Ông  là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt với phong cách hành văn tiêu biểu cho người Nam Bộ đầu thế kỷ 20.   Xét về đủ mọi phương diện, Hồ Biều Chánh là một nhà tiểu thuyết lớn của Nam bộ và cả nước. Nếu Trương Vĩnh Kư, Huỳnh Tịnh Của ... là những người tiên phong đặt nền móng cho chữ quốc ngữ th́ Hồ Biểu Chánh là một trong những người đă làm cho quốc ngữ được phong phú.

Nhà văn Hồ Biểu Chánh có một cái nh́n thông cảm với số phận của những người nông dân, tá điền chịu cảnh bất công. Cái nh́n thông cảm được phản ảnh một phần nào trong các tác phẩm của ông, ông đề cao phẩm hạnh của người phụ nữ và các giá trị truyền thống, luân lư và đạo đức gia đ́nh. Những tác phẩm nổi tiếng của ông xuất hiện khoảng đầu nửa thế kỷ XX, với lối hành văn mộc mạc, cách miêu tả bộc trực, sinh động qua các nhân vật đậm chất Nam Bộ, … một số tác phẩm của ông đă được biên kịch và dựng thành phim như: Con nhà nghèo, Nợ đời, Chúa Tàu Kim Quy…

Sự nghiệp văn chương

Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quí mến hơn tên tộc Hồ Văn Trung của ông. Ông đă có những đóng góp to lớn vào sự h́nh thành thể lọai tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai.  

Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là một bộ lịch sử phong tục Nam bộ hồi xưa, Tiểu thuyết của ông là một bức tranh sống động về phong tục Việt bằng chữ. Ông thuộc vào một số rất ít nhà văn Việt đă sử dụng cách diễn đạt nôm na, b́nh dị. những từ ngữ b́nh dân một cách tự nhiên, phản ảnh trung thực tâm t́nh và tâm lư của người dân b́nh dị, và nhờ đó các truyện viết của ông dễ gây xúc động cho người đọc, chẳng hạn có những từ “rặt” Nam bộ được chú giải khá thú vị, ví dụ: “Buồn nghiến: buồn nhiều, buồn nát ḷng; Lẹo chẹo: lời qua tiếng lại;Thẳngbúng: và cơm liên tục cho tới da má căng thẳng (ăn ngốn, ăn không thanh nhă)…

Tiểu thuyết của ông được phổ biến rộng răi và đă đi vào ḷng của đại đa số dân chúng miền Nam. Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ, cốt truyện đơn giản, triết lư chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là rất Nam Bộ, từ giọng văn đến miêu tả con người..


- Sở trường
của Nhà văn Hồ Biểu Chánh: văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam bộ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ XX với những xáo trộn xă hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ.

 Ông để lại hơn 100 tác phẩm gồm: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập kư, 28 tập khảo cứu - phê b́nh. Ngoài ra, c̣n có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.

 

Biên khảo:

 

Pétain cách ngôn Á đông triết lư hiệp giải (Sài G̣n – 1942)

Gia Long khai quốc văn thần (Sài G̣n – 1944)

Gia Định Tổng trấn (Sài G̣n)

Chấn hưng văn học Việt Nam (Sài G̣n – 1944)

Trung Hoa tiểu thuyết lược khảo (Sài G̣n – 1944)

Đông Châu liệt quốc chí b́nh nghị (Bến Súc – 1945)

Tu dưỡng chỉ nam (Bến Súc – 1945)

Pháp quốc tiểu thuyết lược khảo (B́nh Xuân – 1945)

Một lằn chánh khí: Văn Thiên Tường (BX 1945)

Nhơn quần tấn hóa sử lược (G̣ Công – 1947)

Âu Mỹ cách mạng sử (G̣ Công – 1948)

Việt ngữ bổn nguyên (G̣ Công – 1948)

   Thành ngữ tạp lục (G̣ Công – 1948)

    Phật tử tu tri (G̣ Công)

Nho học danh thơ (G̣ Công)

   Thiền môn chư Phật (G̣ Công – 1949)

   Địa dư đại cương (G̣ Công)

  Hoàng cầu thông chí (G̣ Công)

   Phật giáo cảm hóa Trung Hoa (1950)

     Phật giáo Việt Nam (1950)

    Trung Hoa cao sĩ, ẩn sĩ, xứ sĩ (1951)

o                                                        Nho giáo tinh thần (1951)

 

Phim

·                                 Ân oán nợ đời

·                                 Cay đắng mùi đời

·                                 Con nhà nghèo

·                                 Khóc thầm

·                                 Ngọn cỏ gió đùa

·                                 Nợ đời

·                                 Tại tôi

·                                 Tân Phong nữ sĩ

·                                 T́nh án

·                                 Ḷng dạ đàn bà

·                                  

Dịch thuật:

Tân soạn cổ tích (cổ văn Trung Quốc, Sài G̣n-1910)

Lửa ngún th́nh ĺnh (dịch tiếng Pháp, SG, 1922)

 

Tùy bút phê b́nh:

Chưởng Hậu quân Vơ Tánh (Sài G̣n – 1926)

Chánh trị giáo dục (G̣ Công – 1948)

Tùy bút thời đàm (G̣ Công – 1948)

 

Thơ:

U t́nh lục (Sài G̣n – 1910)

Vậy mới phải (Long Xuyên – 1913)

Biểu Chánh thi văn (Tập i, ii, iii bản thảo)

 

Hài kịch:

T́nh anh em (Sài G̣n – 1922)

Toại chí b́nh sinh (Sài G̣n – 1922)

Đại nghĩa diệt thân (Bến Súc – 1945)

 

Hồi kư:

Kư ức cuộc đi Bắc Kỳ (1941)

Mấy ngày ở Bến Súc (1944)

Đời của tôi:

1. Về quan trường,

2. Về Văn nghệ,

3. Về phong trào cách mạng

Một thiên kư ức:

Nam Kỳ cộng ḥa tự trị(G̣ Công -1948)

Tâm hồn tôi (G̣ Công – 1949)

Nhàn trung tạp kỷ

 (tập i, ii, iii G̣ Công – 1949)

 

Hát bội:

Thanh Lệ kỳ duyên (Sài G̣n 1926 – 1941)

Công chúa kén chồng (B́nh Xuân – 1945)

Xả sanh thủ nghĩa (B́nh Xuân – 1945)

Trương Công Định qui thần (B́nh Xuân – 1945)

 

Cải lương:

Hai khối t́nh (Sài G̣n – 1943)

Nguyệt Nga cống Hồ (Sài G̣n – 1943)

V́ nước v́ dân (G̣ Công - 1947)

 

o  

Tiểu thuyết:

  Ai làm được (Cà Mau 1912)

  Ái t́nh miếu (Vĩnh Hội – 1941)

  Bỏ chồng (Vĩnh Hội – 1938)

   Bỏ vợ (Vĩnh Hội – 1938)

  Bức thơ hối hận (G̣ Công – 1953)

  Cay đắng mùi đời (Sài G̣n -1923)

 Cha con nghĩanặng(Càn Long-1929

  Chị Đào,Chị Lư(Phú Nhuận - 1957)

   Chúa tàu Kim Qui (Sài G̣n - 1923)

 Chút phận linh đinh (CànLong-1928)

  Con nhà giàu (Càn Long – 1931)

 Con nhà nghèo (Càn Long – 1930)

   Cư Kỉnh (Vĩnh Hội – 1941)

  Cười gượng (Sài G̣n – 1935)

  Đại nghĩa diệt thân (Sài G̣n – 1955)

  Dây oan (Sài G̣n –1935)

 Đỗ Nương Nươngbáo oán (SG 1954)

  Đóa hoa tàn (Vĩnh Hội – 1936)

  Đoạn t́nh (Vĩnh Hội –1940)

   Đón gió mới, nhắc chuyện xưa   (Phú Nhuận – 1957)

      Hai chồng (Sài G̣n – 1955)

   Hai khối t́nh (Vĩnh Hội – 1939)

   Hai vợ (Sài G̣n – 1955)

Hạnh phúc lối nào(Phú Nhuận- 1957)

Kẻ làm người chịu (Càn Long – 1928)

Khóc thầm (Càn Long – 1929)

Lá rụng hoa rơi (Sài G̣n – 1955)

Lạc đường (Vĩnh Hội – 1937)

Lẫy lừng hào khí (Phú Nhuận – 1958)

Lời thề trước miễu (Vĩnh Hội – 1938)

Mẹ ghẻ con ghẻ (Vĩnh Hội – 1943)

Một chữ t́nh (Sài G̣n – 1923)

Một đời tài sắc (Sài G̣n – 1935)

Một duyên hai nợ(Sài G̣n – 1956)

Nam cực tinh huy (Sài G̣n – 1924)

Nặng bầu ân oán (G̣ Công – 1954)

Nặnggánhcangthường(CànLong1930)

Ngọn cỏ gió đùa (Sài G̣n – 1926, phỏng theo Những người khốn khổ của Victor Hugo)

Người thất chí (Vĩnh Hội –1938)

Nhơn t́nh ấm lạnh (Sài G̣n – 1925)

Nhữngđiềunghe thấy(Sài G̣n-1956)

Nợ đời (Vĩnh Hội – 1936)

Nợ t́nh (Phú Nhuận – 1957)

Nợ trái oan (Phú Nhuận – 1957)

Ở theo thời (Sài G̣n – 1935)

Ông Cả B́nh Lạc (Sài G̣n – 1956)

Ông Cử (Sài G̣n – 1935)

Sống thácvới t́nh(Phú Nhuận -1957)

Tại tôi (Vĩnh Hội – 1938)

Tân Phong nữ sĩ (Vĩnh Hội – 1937)

Tắt lửa ḷng (Phú Nhuận – 1957)

Thầy Thông ngôn (Sài G̣n – 1926)

Thiệt giả, giả thiệt (Sài G̣n – 1935)

Tiền bạc, bạc tiền (Sài G̣n – 1925)

T́m đường (Vĩnh Hội – 1939)

T́nh mộng (Sài G̣n – 1923)

Tơ hồng vương vấn (1955)

Trả nợ cho cha (Sài G̣n – 1956)

Trọn nghĩa vẹn t́nh (G̣ Công – 1953)

Trongđámcỏ hoang(PhúNhuận 1957)

Từ hôn (Vĩnh Hội – 1937)

V́ nghĩa v́ t́nh (Càn Long – 1929)

Vợ già chồng trẻ (Phú Nhuận – 1957)

Ư và t́nh (Vĩnh Hội – 1938 – 1942)

Người vợ hiền (?)*

Đoản thiên:

Chị Hai tôi (Vĩnh Hội – 1944)

Thầy chùa trúng số (Vĩnh Hội – 1944)

Ngập ngừng (Vĩnh Hội)

Một đóa hoa rừng (Vĩnh Hội – 1944)

Hai Thà cưới vợ (Vĩnh Hội)

Ḷng dạ đàn bà (Sài G̣n – 1955)

 

Truyện ngắn:

Chuyện trào phúng, tập I, II (Sài G̣n – 1935)

Chuyện lạ trên rừng (Bến Súc – 1945)

Truyền kỳ lục (G̣ Công – 1948)