Bài viết của Trần Nguyên
1- Định nghĩa Văn hóa và Ngôn Ngữ
Văn hóa là sự tồn tại chất lọc những tinh hoa của loài người qua quá trình sinh hoạt và phát triển.
Ngôn ngữ là một phương tiện được hình thành tự nhiên theo quy luật tự nhiên để thể hiện văn hóa, để duy trì được văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ ở đây được hiểu là tiếng nói và chữ viết |
||
2- Mối tương quan giữa ngôn ngữ và văn hóa Văn hóa không thể tồn tại nếu không được minh họa bằng ngôn ngữ, bởi lẽ đã có rất nhiều kỳ tích, kỳ quang của thế giới được khai quật có niên đại từ cả nhiều năm trước, nhưng vì thiếu chi tiết trong minh họa bằng ngôn ngữ nên không thể tái tạo đúng như nền văn hóa đó. Ca dao Việt có câu:Trăm năm bia đá thì tròn Vật chất có thể bị biến thể , nhưng ngôn ngữ thì chỉ tiến và phát triển cập nhật theo quá trình phát triển của xã hội Không có bộ phim câm nào thể hiện nổi những đề tài nóng bỏng về những biến động b của xã hội nếu không được dẫn giảng bằng ngôn ngữ ( tiếng nói và chữ viết) Nếu thu nhỏ mô hình đất nước thành một gia đình , thì văn hóa đất nước được ví như một người chồng,còn ngôn ngữ thì được ví như một người vợ chung thuỷ giữ gìn những thành quả hiện hữu của người chồng và sinh ra con cái cháu chắt mang tế bào genes của người chồng. Đối với đất nước quê hương Việt, thì văn hóa Việt không thể tồn tại nếu không có ngôn ngữ Việt ( tiếng nói và chữ viết) Nếu hiểu Văn hóa Việt là chồng, và ngôn ngữ Việt là vợ , thì những đứa con của văn hóa đó và ngôn ngữ đó chính là : -Kho tàng ca dao tục ngữ truyển khẩu rồi đến các tập thơ bất diệt như Kiều, Lục Văn Tiên, Bình Ngô đại Cáo và những tác phẩm văn xuôi hiện đại . |
||
Những câu ca dao tục ngữ truyển khẩu là kho tàng văn hóa Việt truyền thống quy tụ từ nhiều sắc tộc, từ nhiều vùng miền và từ tín ngưỡng khác nhau nhưng bản chất đều hướng con người đi vào chiều sâu nội tâm, phát triển tính nhân văn, tính cộng đồng, lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, và tình cảm gia đình Thử khảo sát một chút về văn hóa Việt truyền khẩu: 1/- Nhiều ẩn ý
Bài ca Thằng Bờm Thằng Bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi ba bò chín trâu Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu Phú ông xin đổi một xâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè Phú ông xin đổi một bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim Phú ông xin đổi con chim đồi mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm sôi Bờm cười Bài ca rất thường nhưng nhiều ẩn ý. Có thể coi Bài ca Thằng Bờm như một câu chuyện ngụ ngôn, một chuyện cười đúng nghĩa, cũng có thể là một chuyện hiện thực phê phán cũng đúng. 2/-Kinh nghiệm có cơ cở Khoa Học Bài ca Chuồn chuồn: Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm Bài ca Cơn m ây Cơn đàng đông vừa trông vừa chạy Cơn đàng nam vừa làm vừa chạy Cơn đàng tây mưa dây gió dật Lúa chiêm thấp thoáng đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên Bài ca Chuồn chuồn và Bài ca Cơn m ây làm ột chuỗi những câu ca dao tục ngữ nói về sinh hoạt thuần nông của dân tộc Việt lấy kinh nghiệm dân gian làm nền tảng nhận định nhưng lại thực tế và hiện đại có đủ cơ sở khoa học kỹ thuật . 3/- Đặc thù nhưng chuẩn về phong cách thuần Việt Văn hóa vùng miền, nông thôn, vùng thị tứ, vùng đô thị dù có khác nhau về hình thức nhưng hoàn toàn giống nhau về tính thuần việt:lòng yêu nước, tính đoàn kết, tình gia đình, tình yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, luôn luôn lấy con người làm trọng tâm a- Đặc thù Cứ đến một vùng nào đó, địa phương nào đó, đều bắt gặp nhiều nét đặc thù về địa phương đó, chẳng hạn một số cộng cụ đặc sản địa phương.Ví dụ đi Huế sẽ mua và tìm hiểu được lịch sử nón bài thơ, mua được cả khuôn làm nón, ăn được cơm hến. Còn muốn mua và tìm hiểu về tranh Đông Hồ hay gạch bát Tràng, thì ta phải đi Hà nội b- Chuẩn về phong cách thuần Việt Nhưng có một điều : các sản phẩm vừa nêu lại thể hiện rất chuẩn về phong cách thuần Việt : Ví dụ trên tranh Đông Hồ có cảnh quê cây tre Việt . Trên các họa tiết của đồ gốm sứ Bát Tràng cũng có những cảnh tượng với nội dung truyền thống tương tự. Kết luận Văn hóa Việt là một thành quả khổng lồ đã được gạn đục khơi trong suốt bề dầy lịch sử dân tộc. Để bảo tồn và phát huy sức mạnh của nó chúng ta cần những thế hệ kế thừa vun trồng ngôn ngữ để làm việc này. |
Các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận vững chắc rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm và Nước Việt là một nước thuộc vùng Đông Nam Á. Rồi theo kết quả khảo cổ của giới khoa học quốc tế, thì khoảng 15.000 năm trước, băng hà bắt đầu tan, nước biển dâng, trở nên nóng và ẩm, tạo điều kiện cho cây lúa ra đời ở Đông Nam Á , khiến cho Đông Nam Á là quê hương đầu tiên của cây lúa. Riêng về cây lúa nước thì các tài liệu nghiên cứu đều xác nhận người Việt cổ là tổ tiên của nền văn hóa lúa nước thông qua đồ gốm trộn trấu, đồ đồng, đồ sắt, vào thời kỳ Đông Sơn khoảng 13.000 năm trước trước Công Nguyên. Di tích nền văn hóa này từng tồn tại ở một số tỉnh Miền Bắc và Miền bắc Trung Việt (Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Tây, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh mà trung tâm là khu vực Đền Hùng, dọc theo sông Hồng, sông Mã và sông Lam Khoa Khảo Cổ cho ta một bộ sưu tập về lưỡi cày, rồi lưỡi cuốc, lưỡi thuổng, lưỡi xẻng, lưỡi rìu, bằng đồng và bằng sắt vào giữa và cuối thời kỳ Đông Sơn. Riêng lưỡi cày bằng đồng có tới 4 kiểu dáng, đó là lưỡi cày hình tam giác có họng tra cán to khoẻ được phân bố ở dọc sông Thao; lưỡi cày cánh bầu dục hay hình thoi được phân bố ở vùng đồng bằng Bắc Việt, lưỡi cày hình thoi được phân bố tập trung ở vùng sông Mã, lưỡi cày hình xẻng vai ngang phân bố ở vùng làng Vạc. Cuốc bao gồm lưỡi cuốc có lỗ tra cán, cuốc hình tam giác, cuốc có vai, cuốc chữ U, cuốc hình quạt, v.v. Rìu có rìu chữ nhật, rìu tứ diện lưỡi xoè, rìu hình lưỡi xéo, hình bàn chân, rìu lưỡi lệch.
Theo Khoa Khảo Cổ, thì từ thời Hùng Vương, nông nghiệp trồng lúa nước chiếm địa vị chủ đạo, trên khắp lãnh thổ từ trung du đến đồng bằng, dọc theo các con sông. Theo các nhà khảo cứu thì cuốc là dụng cụ được dùng đầu tiên, rồi đến lưỡi cày thay thế . Nông nghiệp dùng cày là nguồn cung cấp lương thực chính nuôi sống xã hội Việt. Nói đến lưỡi cày thì phải nghĩ đến Con Trâu. Hình trâu và hình bò khắc hoạ trên mặt trống đồng chứng tỏ cư dân thời Hùng Vương đã sử dụng trâu, bò làm sức kéo trong nông nghiệp. Về công cụ gặt hái thì cái liềm là dụng cụ, hiện còn di tích về cái liềm thời kỳ Đông Sơn ở làng Vạc chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của nghề trồng lúa nước thời Hùng Vương.
Nghề trồng lúa nước lệ thuộc vào thiên nhiên: mưa lụt bão táp, hạn hán và đòi công sức thật là vất vả mới có miếng ăn. Biết khôn ngoan thích ứng với thiên nhiên, người Việt lại nhận ra năng lực cộng đồng: “Khôn độc không bằng ngốc đàn, “Một cây làm chẳng nên non”. Chính vì vậy, người Việt từ xưa đã hợp tác tương trợ lẫn nhau, nên hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh dưới dạng làng xã., Những cộng đồng văn hoá làng xã đông đúc quy tụ men theo chân ruộng của vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã , sông Lam… Những hội hè đình đám, lễ lạt trong năm, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật cộng đồng đều sản sinh từ văn minh lúa nước. Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của người Việt |
||
I- Đặc điểm của văn hóa lúa nước
1-Ruộng nước Đầm lầy hoặc đồng lầy là quê hương của Lúa nước . Ở đó nước là nhu cầu cho Lúa phát triển. Mực nước từ 100 mm đến 150 mm trong một tháng cần để giúp cho cây lúa tăng trưởng và kết hạt tốt. Những khu vực đồng bằng và các lưu vực các con sông chảy qua các miền nhiệt đới nhiều mưa sẽ là môi trường thuận lợi cho cây lúa nước phát triển. Ví dụ như đồng bằng sông Hồng... thích hợp cho cây lúa nước. Cây lúa nước năng suất cao khi hàng năm các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã... mang theo một lượng phù sa mùa nước lũ mới vào bồi đắp tăng thêm hoa mầu. .
2- Nhiệt độ khoảng 21 - 27°C Nhiệt độ môi trường thích hợp nhất cho Lúa nước phát triển là khoảng 21 - 27°C. Đất Việt có nhiều tháng nhiệt độ này. Cây lúa nước phát triển tốt khi sống ở những khu vực khí hậu phù hợp như các vùng nhiệt đới chẳng hạn.
3- Giống loại lúa nước Giống loại lúa nước cũng là một yếu tố tăng năng suất và phẩm chất cho cây lúa nước mà các cư dân trồng lúa nước đặc biệt coi trọng. Người Việt cổ đã phát hiện ra sự khác nhau về năng suất của các loại lúa nước, một loại lúa nước mọc ở các triền đất khô ẩm và một loại lúa nước mọc ở khu vực ngập nước của lưu vực các con sông lớn là hoàn toàn khác nhau.
4- Thời vụ Để Nước, Nhiệt độ và Giống lúa phù hợp với nhau ngõ hầu cây lúa nước phát triển, thì Thời vụ trồng lúa là yếu tố quan trọng. Người Việt trước đây trồng lúa chủ yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Về sau, do tiếp xúc với người Chiêm (hay Chăm) nên có thêm lúa chiêm (hay lúa chăm). Như vậy, hằng năm người Việt canh tác lúa vào hai mùa chính: lúa chiêm và lúa mùa. Tục ngữ đã ghi lại cách gọi tên lúa theo hai vụ này: "Chiêm xấp xới, mùa đợi nhau"; "Chiêm bơ bãi, mùa phải thời", nghĩa là mạ chiêm thì có thể cấy chênh nhau về ngày nhưng mạ mùa thì phải đúng thời gian, vào một khoảng nhất định, đó là lúc có sao tua rua. Cũng chính vì vậy, sao tua rua là một trong những ngôi sao làm bạn với nhà nông: "Tua rua đi bắc mạ mùa". Điều này thúc đẩy việc sáng chế ra lịch tính ngày, tháng, năm và các mùa trong năm của các cư dân trồng lúa nước.. Âm Lịch ( lịch mặt trăng) giúp cho người nhà nông biết nước thuỷ triều lên xuống như thế nào, để dùng vào việc làm ruộng nước và để biết ngày tháng gieo mạ , trồng lúa. Nắm vững được những đặc điểm của nông nghiệp lúa nước, những cư dân Việt có thể mở rộng diện tích trồng trọt bằng hệ thống dẫn thuỷ nhập điền hoặc hệ thống thuỷ lợi.
Hệ thống dẫn thuỷ nhập điền đảm bảo đủ nước và không thừa nước, để cây lúa sinh trưởng. Còn hệ thống thuỷ lợi mở rộng đất đai trồng trọt tăng lượng thu hoạch lúa hàng năm. Nói chung thì cả hai hệ thống nêu trên đều chú trọng đắp bờ ruộng và dẫn nước theo các con kênh vào ruộng và khống chế lượng nước bằng độ cao của lối thoát nước. Hệ thống đê điều hai bên sông phải thường xuyên vững chãi để đề phòng xẩy ra mưa lớn, bão, úng, lụt, tràn ngập ruộng lúa. Ông cha ta đã bắt đầu đắp đê ngăn lũ lụt từ hàng chục thế kỷ trước.. áp dụng kỷ luật cấy trồng nghiêm ngặt về thời vụ, tưới tiêu, về hạt giống, chăm bón… Kỹ thuật trồng lúa nước nghìn năm của người Việt được tổng kết trong 4 chữ “Nước, phân, cần, giống”, ngày nay đã đạt tới trình độ trở thành “tinh hoa” và cụ thể hóa trong các công đoạn: Xếp ải nỏ, chọn giống tốt, gieo mạ khay, cấy mạ non ngửa tay thẳng hàng, tưới nước phù sa theo thuỷ triều, đắp đê tạo ra các kênh tưới tiêu...
5- Khác biệt giữa đặc tính của vụ Lúa Mùa và vụ Lúa Chiêm
Các vụ lúa cổ truyền chính vùng Đồng bằng sông Hồng là lúa mùa và lúa chiêm. Vụ lúa mùa: Từ ngữ "mùa" được dùng để chỉ "thời gian trồng lúa" (mùa lúa) và "thời gian thu hoạch lúa" (mùa màng), rồi chuyển thành tên gọi chỉ một loại lúa (lúa mùa). Vụ lúa mùa cần nhiều nước nên hàng năm gieo cấy một vụ lúa vào mùa mưa nhiều (hè thu),. Vụ lúa mùa: (mùa sớm, mùa trung và mùa muộn), bắt đầu vào cuối tháng 5 và kết thúc vào trung tuần tháng 11 hàng năm. Vụ lúa mùa (mùa sớm,)sử dụng các giống lúa ngắn ngày, thời gian sinh trưởng từ 105 đến 120 ngày như CR203, Q5, KD18. . . Vụ lúa mùa (mùa trung và mùa muộn), sử dụng các giống lúa có thời gian sinh trưởng từ 125 trở lên như Nếp, Dự, Mộc Ttuyền, Bao Thai, Tám thơm các loại.
Vụ lúa chiêm Vụ lúa chiêm xuất hiện khi có giống lúa xuất xứ từ đất Chiêm Thành quen chịu khí hậu khô của Trung bộ, được đưa ra Bắc gieo cấy vào mùa ít mưa (đông xuân) rất thích hợp. Lúa chiêm được gieo cấy vào cuối tháng 10 (vào cuối năm âm lịch) hoặc đầu tháng 11 và thu hoạch vào cuối tháng 5 (hè năm sau).. Lúa chiêm làm trong mùa khô, vì vậy phải có nước tưới chủ động. Đầu và giữa vụ thường gặp rét, cuối vụ nóng và bắt đầu có mưa (mưa rào), nên phải dùng giống có khả năng chịu rét. Lúa chiêm xuân (xuân sớm, chính vụ và xuân muộn) với bộ giống đa dạng, được gieo cấy vào cuối tháng 11 và thu hoạch vào đầu tháng 6 năm sau. Lúa chiêm kỳ làm đòng rất cần các yếu tố dưỡng chất thiên nhiên, trong đó có chất được tạo nên nhờ tác nhân sấm chớp cơn giông. Vì thế, dân gian có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên!” |
||
II - Dấu ấn văn hoá lúa nước của người Việt thể hiện qua tục ngữ khá rõ.
1- Các từ liên hệ đến lúa a/-- Cây lúa đến thời kì chín rộ, có màu vàng mơ: hạt lúa,hạt thóc Nếu hạt lúa còn ở trên cây chưa thu hoạch thì gọi là hạt lúa. tục ngữ "Lớn bát cơm, to bó lúa", Từ lúa có biến thể ngữ âm là ló tục ngữ "Khôn như tiên không tiền cũng dại, dại như chó có ló cũng khôn". Nhưng khi đã mang lúa về nhà phơi khô để cất giữ được gọi là hạt thóc tục ngữ "Thóc lúa về nhà, lợn gà ra chợ". Chủ yếu có hai loại: lúa tẻ và lúa nếp. Lúa tẻ nấu thành cơm dùng trong bữa ăn hằng ngày, còn lúa nếp nấu thành xôi dùng vào dịp lễ, tết. Lúa nếp ngon hơn lúa tẻ: tục ngữ "Đắt lúa tẻ, rẻ lúa nếp
b/-- sản phẩm tách từ hạt lúa ra: cám, tấm, trấu, gạo, bột tục ngữ, "trai về nhà bốc cám rang"; "No cơm tấm, ấm ổ rơm"; "Trấu trong nhà, thả gà đi đâu "thóc gạo về ngài, tấm cám về tôi"; "Có bột mới gột nên hồ"; "
c--thực phẩm chế biến từ hạt lúa : cơm, xôi vò, xôi gấc tục ngữ "No cơm ấm áo"; "No cơm ấm cật". "Cơm tẻ no, xôi vò chẳng thiết" "Ăn mày đòi xôi gấc" "Cơm hàng cháo chợ, ai lỡ thì ăn".
d--Các kiểu cơm do cách nấu: cháo. bánh đúc, bánh chưng tục ngữ "Cháo nóng húp quanh, công nợ trả dần"; "Ăn cháo đái bát "Bánh đúc bẻ ba, mắm tôm quệt ngược cả nhà tan hoang" "Ăn chực đòi bánh chưng"
e--các công cụ biến lúa thành thóc thành gạo,: chày, cối, cối xay, dần, nia sàng
"Nhác đâm thì đổi chày, nhác xay thì đổi cối" "Hát khi xay lúa, múa khi tối trời" "Xay thóc có chàng, việc làng có mõ".
Ca dao "Ra đường ông nọ bà kia, về nhà chẳng khỏi cái nia cái sàng".
g-- đơn vị đo lường : lưng cơm trong bát, Ca dao : "Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng, uống nước cầm chừng để dạ thương ai". |
2- Các từ liên hệ đến thời kì phát triển cây lúa
Cây lúa có quá trình phát triển khoảng bốn tháng.Trong khoảng thời gian này, a/- Cây lúa được gọi bằng những tên khác nhau: Giống, mạ (má), lúa con gái, lúa dậy thì, lúa chín. Tục ngữvề Giống:"Nhất nước nhì phân, tam cần tư giống, Muốn ăn lúa phải tìm giống"; ![]()
Tục ngữ về Mạ: -"Mạ chiêm đào sâu chôn chặt mạ mùa chôn chặt mà đi"; - "Trồng khoai đất lạ, gieomạ đất quen" - "Mạ già ruộng ngấu"; - "Mạ mùa sướng cao,mạ chiêm ao thấp" -Trâu lên mạ xuống". "Lúa giỗ ngã mạ, vàng rạ mạ xuống"
b/- Cây lúa được gọi tên theo loại Lúa chiêm, lúa mùa Tục ngữ "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên"; "Gió đông là chồng lúa chiêm, gió bấc là duyên lúa mùa".
c/- Cây lúa được gọi lúa trổ bông: Tục ngữ "Lúa trổ mâm xôi, dẫy nồi chồng vợ";
d/- Cây lúa được gọi lúc lúa chín cây Tục ngữ "Lúa chín hoa ngâu đi đâu chẳng gặt";
e/- Cây lúa được gọi lúc gặt xong là rơm, rạ Phần trên cây lúa phơi khô thì gọi là rơm. còn phần dưới thì gọi là rạ hay gốc rạ Tục ngữ "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén"; "Ôm rơm dặm bụng"; |
||
3- Các từ gọi tên thời tiết, thời vụ gắn với việc trồng lúa
Thời tiết có ảnh hưởng rất lớn đến việc trồng lúa. a/-Kinh nghiệm thời tiết khi nhìn sao Rua và trăng: Tục ngữ về sao Rua "Sao rua đứng trốc, lúa lốc được ăn"; "Tua rua một tháng mười ngày, cấy trốc luống cày cũng được lúa xôi"; "Tua rua bằng mặt cất bát cơm chăm, tua rua đi nằm, cơm chăm đã cạn"
Tục ngữ về trăng: "Muốn ăn lúa tháng năm trông trăng rằm tháng Tám"; "Muốn ăn lúa tháng mười trông trăng mồng tám tháng tư"; "Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu"; "Trăng mười bốn được tằm, tỏ trăng hôm rằm thì được lúa gieo".
b/-Kinh nghiệm thời tiết mưa nắng, sấm, chớp, gió Tục ngữ về nắng, mưa: "Nắng tốt dưa mưa tốt lúa"; "Mồng tám tháng tám không mưa bỏ cả cày bừa mà nhổ lúa đi"; "Mồng chín tháng chín không mưa, mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng, Mồng chín tháng chín có mưa, mẹ con bán cả cày bừa mà ăn"; "Tháng Tám mưa trai tháng hai mưa thóc";
Tục ngữ về sấm: "Tháng mười có sấm cấy trên nấm cũng có ăn"; "Lúa chiêm đứng nép đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên";
Tục ngữ về gió: "Trời nồm tốt mạ, trời giá tốt rau"; "Gió đông là chồng lúa chiêm, gió bấc là duyên lúa mùa".
4. Các từ ngữ gọi tên thứ tự việc canh tác lúa nước. -Tục ngữ "Nhất nước nhì phân, tam cần, tứ giống" "Nhất ruộng, nhì mạ, thứ ba canh điền"; "Cày cấy, bón phân phải kể anh phạt bờ cuốc gốc".
5. Các từ ngữ về cách thức làm đất : đất ải, đất dầm ngấu Tục ngữ "Đất không ải, rải thêm phân": "ải bở chồng con ở, ải sượng chồng con đi"; "Một cục đất ải bằng một bãi phân"; "Cày ải hơn rải phân".
Tục ngữ "ải thâm không bằng dầm ngấu"; "Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì ngấu tươi",
6. Các từ ngữ về cách thức làm cỏ: Nói đến làm ruộng là phải diệt sạch cỏ: Tục ngữ "Ăn cơm làm cỏ chẳng bỏ đi đâu"; "Một búi cỏ, một giỏ thóc"; "Một lượt cỏ, thêm một giỏ thóc".
7. Các từ ngữ về cách thức cày, bừa Tục ngữ "Cày cạn khoẻ trâu, cày sâu tốt lúa"; "Cày gãi bừa chùi, lúa thui thóc lép Cày sâu bừa kép, lúa đẹp bông sây"; "Cày sâu làm đầu lúa tốt"; "Thứ nhất cày nỏ thứ nhì bỏ phân". Tục ngữ về Cày bừa theo vụ mùa "Chiêm đi đơn, mùa đi kép".
Tục ngữ về kiểu cày chưa đúng cách: "Cày thưa bừa mệt"; "Cấy sáng cấy tối, gặp phải chân bừa dối toi ăn".
8. Các từ ngữ về đi cấy Tục ngữ "Chẳng cấy lấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu có chữ "Cấy bằng mặt, gặt bằng đầu". "Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn "Gié thừa cấy nỏ, chiêm thừa bỏ đi"; "Vụ mùa cấy lúa cao, vụ chiêm cấy lúa trũng". "Lúa mùa thì cấy cho sâu, lúa chiêm thì gửi cành dâu cũng vừa"
9. Các từ ngữ về tưới,đắp đìa,đắp bờ,gàu dai, gàu sòng Tục ngữ "Đất điền đất thổ, ruộng cao tưới trước, ruộng thấp tưới sau"; "Không nước không phân chuyên cần vô ích"; "Làm ruộng thì phải đắp đìa, vừa dễ giữ nước, khi về dễ đi"; "Làm ruộng thì phải đắp bờ, may cờ thì phải viền đường mép". "Cao bờ thì tát gàu dai, gàu sòng chỉ tát được nơi thấp bờ".
10. Các từ ngữ về gặt lúa Khi lúa chín, người nông dân thường dùng hái, liềm (còn gọi là A, vì nó có hình giống như chữ A):
Tục ngữ "Lúa phơi màu, trông nhau liềm hái"; "Cắt rạ thì dùng bằng A, quét nhà thì dùng bằng chổi
11. Các từ ngữ về so sánh a/ thóc gạo là thước đo tính giá trị trong lời nói: Tục ngữ "Lời nói quan tiền thúng thóc".
b/ Thóc gạo được coi là thước đo nhiều giá trị khác nhau trong xã hội. Tục ngữ "Ông tiền ông thóc, ông cóc gì ai"; "Bà tiền bà thóc, bà cóc gì ai"; "Không tiền không gạo mạnh bạo gì thầy"; "Không tiền không gạo mạnh bạo xó bếp"; "Ngồi đống thóc, móc đống tiền".
c/ Thóc gạo là thước đo sự giàu nghèo: Tục ngữ "Khen nhà giàu lắm thóc"; "Con học, thóc vay". "Chứa tiền chứa thóc thì giàu"; "Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc"; "Chứa tiền chứa thóc thì giàu"; "Nhà giàu mua vải tháng ba, bán gạo tháng tám mới ra nhà giàu"; "Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc
d/ Cuối cùng, thóc gạo còn là thước đo sự khôn dại: Tục ngữ "Mạnh vì gạo bạo vì tiền Không tiền cũng dại, dại như chó có ló cũng khôn";
12- Các từ v ề đơn vị đong thóc : thưng, đấu Tục ngữ "Ba thưng cũng vào một đấu"; "Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu"; "Được vài đấu thóc khấn trời làm mưa".
13-Các từ v ề đơn vị đựng a/ đựng lúa, gạo bằng bồ, cót, bát, giỏ, thúng , lẫm đống, Tục ngữ : "Tháng giêng ăn nghiêng bồ thóc"; bồ còn thóc hết"; "Thóc cót thóc bồ"; "Thóc gạo đầy bồ cũng nhờ anh phạt bờ cuốc góc"; "Dòm giỏ bỏ thóc"; "Một lượt cỏ, một giỏ thóc"; "Cày sâu cuốc bẫm, thóc đầy lẫm khoai đầy bồ"; "Nắm cỏ giỏ thóc"; "Lời nói thúng thóc, lời nói dùi đục cẳng tay";
b/ đựng cơm bằng bát, chén, đọi, môi, thìa..., Tục ngữ "Có bát mát mặt; "Lớn bát cơm to bó lúa"; "Một nút lạt một bát cơm"; "Cơm ba bát áo ba manh"; "Ngồi mát ăn bát đầy, "lầy cầy không đầy bát"; " "Sợ bát cơm đầy không sợ thầy to tiếng"; "Ăn cháo đái bát"; "Bớt bát cơm mặt còn hơn nợ nần"; "Một quả cà bằng ba chén thuốc"; "Một chén thuốc ta bằng ba chén thuốc tàu"; "Lời nói đọi máu"; "Ba voi không được đọi xáo".
c/ đựng chứa người, vật bằnggiỏ ,bồ, đống ,bè, bị, thuyền Tục ngữ "Một giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn". |
||
III-Vai trò con Trâu trong nền văn hóa nước Nói đến nông nghiệp lúa nước, hình ảnh con trâu xuất hiện. Trâu là một động vật có vú và thích nghi với hệ thái sinh thái đầm lầy. Cỏ hoang chung quanh đầm lầy là thức ăn hàng ngày của chúng. Loại trâu thường thấy hiện nay là loại trâu nhà. Chúng là hậu duệ của trâu rừng vốn sinh sống vùng đầm lầy Đông Nam Á nhiệt đới gió mùa. Đầm lầy là nơi sinh sống của loại trâu và cũng là quê hương của Lúa nước. Sống bằng gạo thóc sản phẩm của lúa nước, dân Việt thuần hóa loại trâu để dùng vào việc chuẩn bị đất ruộng trồng lúa và đập lúa. Trong khung cảnh đồng quê người và trâu gắn bó với nhau như hình với bóng: Ca dao: Ai ơi cùng vợ cùng chồng chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa
Trâu đã cùng với con người Việt một nắng hai sương, sớm hôn tận tuỵ với nền văn minh lúa nước. Trâu giúp con người tạo dựng đời sống vật chất, cùng với con người chịu đựng nắng sớm mưa chiều, những giọt mồ hôi tưới trên đồng xanh : Quốc văn Giáo Khoa Thư Ai bảo chăn trâu là khổ ? Chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi trên mình trâu, đầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre nhu roi ngự, tai nghe chim hót trên cành cây, mắt trông bướm lượn trong đám cỏ xanh . Ngoài sự cộng lực làm nên của cải, trâu còn chia sẻ niềm vui thanh thản trong những chiều nhàn hạ, gợi lên khúc ca hồn nhiên đầy thi vị làm phong phú hóa cánh đồng thi ca miền quê :
Ca dao bao giờ dồng ruộng thảnh thơi nằm trâu thổi sáo vui đời Thuấn Nghiêu
Bà Huyện Thanh quan cảm kích tình gắn bó giữa người và trâu trước cảnh chiều hôm, mục đồng gõ sừng trâu hồn nhiên ca hát trên đường đưa trâu về chuồng mà có câu thơ : Gác maí ngư ông về viễn phố, gõ sừng mục tử lại cô thôn
Chăn trâu là khổ thì làm sao có người đồng tình ca ngợi chăn trâu hết lời bằng những giai điệu mượt mà, thướt tha : Ai bảo chăn trâu là khổ ? Chăn trâu sướng lắm chứ, Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau và miệng hát nghêu ngao… Nằm đầu non gió mát.. Khoai lùi bếp nóng ngon hơn là vàng ( Bài ca Em bé quê của Phạm Duy,)
IV- Lễ Hội liên hệ với văn hóa Lúa Nước Dân Việt là một dân tộc sống bằng nghề nông lúa nước . Vì vậy cứ đầu mùa xuân, vua đại diện nhân dân ngự đến Đàn Xã Tắc để tế tự các thần đất, thần sông , thần lúa cùng thần tứ thời, Thổ Thần và Cốc Thần. Tại các tỉnh, cũng có Đàn Xã Tắc, các quan Bố Chánh thay mặt vua hành lễ. Lễ nghi tế tự đều theo điển lễ do Chu Công và Khổng Tử quy định.
Khi tế xã tắc xong, thì một quan khâm mạng cầm cầy để cầy một luống ở sở tịch điền ngõ hầu làm hiệu mở đầu nông vụ. Sau lễ mở đầu nông vụ,các dân làng Việt lần lượt tổ chức các buổi lễ hội để kỷ niệm và đánh dấu nông vụ.Các lễ hội thường diễn ra từ tháng giêng đến tháng ba trong mùa xuân hoặc vào tháng bảy tháng tám trong mùa thu, vì hai mùa này là những thời tiết quan hệ đến mùa màng trong một năm. Trong các lễ hội này thường có việc tế tự. Lễ hội nào cũng có việc tế tự dưới hình thức cầu đảo với Trời cho mưa thuận gío hoà. Tế Tự để cám ơn Trời và cầu đảo để Trời thương . Chung chung thì lễ hội nào cũng có những nghi lễ : cúng bái, dâng lễ vật, và rước kiệu, rồi sau đó có các trò chơi. Lễ hội nào cũng là dịp thi các thổ sản của nông nghiệp Người khảo cứu: Phạm xuân Khuyến |