|
Xă hội Việt vào đầu thế kỷ 21
dưới thời chính quyền Xă Hội Chủ Nghĩa
Xuyên qua bài
viết của ÔngĐào
Tiến Thi (đảng viên CS)
Ông
Đào Tiến Thi có viết lên Trung Ương Đảng
đề nghị Đảng đổi mới chính sách để đảng
tồn tại, mà không bị diệt vong. Sau đây là bài viết của ông
Kính
gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Tôi là Đào
Tiến Thi, thường trú tại 113E Hoàng Hoa Thám, Ba Đ́nh, Hà Nội,
chứng minh nhân dân số 013060932; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam (thẻ Đảng số 97 003164); lĩnh vực hoạt động: biên tập sách,
nghiên cứu văn học (hiện là hội viên Hội Văn học nghệ thuật Vĩnh
Phúc), nghiên cứu ngôn ngữ (hiện là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Ngôn
ngữ học Việt Nam).
Với ư thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, tôi trân trọng gửi
đến BCH Trung ương một số ư kiến về bài học có thể rút ra từ cuộc
vận động canh tân của các sỹ phu Nho học đầu thế kỷ XX.
Thưa quư
vị Trung ương
Dân tộc Việt Nam cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đang đứng
trước t́nh thế buộc phải lựa chọn con đường tồn tại và phát triển
của ḿnh, nếu không muốn bị diệt vong.
Qua
nghiên cứu lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy đây
là giai đoạn dân tộc ta đột nhiên thức tỉnh và hội nhập với thế giới
hiện đại, mà người khai sáng lại chính là những con người thế giới
cũ: tầng lớp sỹ phu Nho học cuối cùng của chế độ phong kiến thời kỳ
suy tàn. Họ là những nhà cách mạng, nhà văn như Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền,
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,… Họ có thể đứng chân ở những tổ chức
khác nhau (Đông du, Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục,…), hoạt động trên
những lĩnh vực khác nhau nhưng đều chung một chí hướng: quyết tâm
canh tân đất nước, đồng thời “thay máu” chính ḿnh
Để làm
được điều đó, các cụ thời ấy đă phải phá lệ, cụ thể đă phải
làm ít nhất ba việc “phản lại” truyền thống sau đây:
· · Kịch
liệt phê phán ư thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, coi dân quyền là
cội nguồn của quốc gia thịnh trị;
-Từ bỏ đặc quyền đặc lợi của chính ḿnh–một giai cấp đă ăn trên ngồi
trốc một ngh́n năm;
· -
-Đón nhận những yếu tố tiến bộ từ phía kẻ thù với một tinh thần
cầu thị cao.
Chúng
tôi thấy những điều này là bài học rất hay cho Đảng Cộng sản Việt
Nam hôm nay. Dưới đây xin phân tích cụ thể hơn.
1.
Kịch liệt phê phán ư thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, coi dân
quyền là cội nguồn của quốc gia thịnh trị
Nho giáo
là một hệ tư tưởng – chính trị – đạo đức có ảnh hưởng sâu sắc đến
Việt Nam . Trong suốt một ngh́n năm dưới chế độ phong kiến, Nho giáo
chi phối toàn bộ đời sống xă hội, đặc biệt là đối với giai cấp phong
kiến. Theo chúng tôi, Nho giáo có ba phần: phần tư tưởng (triết
học), phần học thuyết chính trị và phần đạo đức. Ở đây
xin chỉ bàn phần học thuyết chính trị (cũng là phần chủ yếu
của Nho giáo) trong quan hệ với tầng lớp sỹ phu nói trên. Chúng tôi
tạm dùng thuật ngữ ư thức hệ Nho giáo thay v́ học thuyết
chính trị Nho giáo để nó tương ứng với các thuật ngữ hiện
nay thường dùng như ư thức hệ Mác – Lênin, ư thức hệ tư sản,
tức là tạm tách chúng ra khỏi các b́nh diện tư tưởng và đạo đức
trong các học thuyết đó.
Nho giáo
đặt ra những tam cương, ngũ thường, ngũ luân,… để tạo ra các
rường mối xă hội chặt chẽ mà thực chất cuối cùng chỉ để đặt ông vua
làm chủ nhân của đất nước. Các quan chỉ tuân theo lệnh vua, c̣n
“thần dân” th́ tuân lệnh các quan. Nói cách khác, chỉ có nhà vua là
“công dân đích thực”, c̣n tất cả đều là nô lệ. Trong xă hội ấy,
quyền (cũng như ơn huệ) đều từ trên ban xuống và người dưới chỉ có
thực hiện, chứ không có chiều ngược lại. Cho nên nếu may mắn gặp
được “vua thánh tôi hiền”, biết “chăn dân” (tương tự như chăn đàn
cừu) th́ dân được nhờ, c̣n nếu vua quan bạo ngược th́ dân cũng không
có quyền chống lại.
Các
triều đại phong kiến thường tuyên truyền rằng xă tắc là của “tiền
vương”, “tiền triều” của họ để lại. Đó chẳng qua là một cách đánh
tráo. Các sỹ phu Nho học đầu thế kỷ XX đă đặt ngược lại: người
dân mới chính là chủ nhân của đất nước. Bởi v́ chính nhân
dân là người xây đắp nên đất nước. Phan Bội Châu viết: “Phát cây bụi
lá gai góc, khó nhọc để mở ra thế giới này, không phải là tay chân
của hàng ngh́n vạn người chúng ta chăng? Sớm chuyên chở, chiều
chuyên chở đất cát để lấp kín khe núi kia, không phải là máu mỡ mồ
hôi của tổ tiên hàng ngh́n vạn người chúng ta chăng? Tổ tiên ta đem
nước để lại cho con cháu.
Ta là con cháu, ta nhận nước ở tổ tiên ta. Nước
vốn là gia tài của dân ta”.
Các sỹ
phu cũng thấy rơ nền chính trị toàn trị của nhà nước phong kiến là
nguyên nhân của mọi thối nát, từ cung đ́nh cho đến dân gian. Con
người quen sống trong phục tùng và sự sợ hăi, trở nên ngu hèn, mất
cả khả năng nhận thức:
Quyền dân chủ trên đầu ức chế
Trải ngh́n năm dân trí c̣n ǵ.
(Phan Bội Châu)
V́ dân
không có quyền ǵ trên chính đất nước của ḿnh cho nên tất nhiên
cũng thờ ơ với vận mệnh đất nước; chưa kể, c̣n quay lại xâu xé nhau
v́ những cái lợi nhỏ nhen:
“Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo th́ như ma, như
quỷ, lường gạt, bóc lột, cái ǵ mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu th́
như lợn như ḅ, giẫm cổ đè đầu cũng không dám ho he một tiếng. Cả
mấy mươi triệu người như một đàn ruồi lũ kiến, không c̣n chút nhân
cách nào” (Phan Châu Trinh).
Ngày nay
ta đưa khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh”, c̣n các chí sỹ thời ấy dùng
“dân mạnh”, “dân khôn”, thiết nghĩ là chính xác hơn. Dân giàu chưa
chắc đă là “dân mạnh” và dân giàu chưa chắc đă làm cho nước mạnh (nếu
ư thức công dân kém, nếu sống bo bo, ích kỷ th́ chỉ có hại cho đất
nước). “Dân mạnh” trước hết là mạnh về ư chí, mạnh về tri thức, mạnh
về nghề nghiệp, sau đó mới là mạnh về sản nghiệp. Quan hệ dân – nước
là quan hệ:
Nước muốn mạnh thời dân phải mạnh
Dân có khôn thời nước mới khôn.
(Thơ Đông Kinh nghĩa thục)
Nếu công
cuộc duy tân thắng lợi th́ h́nh ảnh đất nước ta sẽ là h́nh ảnh một
xă hội dân trị (chữ thời đó thường dùng để phân biệt với quân
trị).
Phan
Bội Châu viết: “Sau khi đă duy tân rồi th́ dân trí sẽ được mở mang,
dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân
ta nắm giữ. Giữa đô thành nước ta đặt một toà nghị viện lớn.
Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị
viện phải đợi trung nghị viện đồng ư, trung nghị viện phải đợi hạ
nghị viện đồng ư mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số dân
chúng có quyền tài phán việc của trung nghị viện và thượng nghị viện.
Phàm là dân nước ta, không cứ sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có
quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay truất, dưới là quan
nên thăng hay giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả”. |
|
|
2. Từ
bỏ đặc quyền đặc lợi của chính ḿnh – một
giai cấp đă từng “ăn trên ngồi trốc” suốt một ngh́n năm
Bác bỏ ư
thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, các sỹ phu Nho học thời đó cũng
đương nhiên tự tước đi quyền và lợi của ḿnh. Bởi v́
cho đến lúc đó, tuy chủ quyền quốc gia đă mất nhưng bộ máy phong
kiến vẫn được duy tŕ. Các sỹ phu thời ấy vẫn thoải mái ăn trên ngồi
trốc, vinh thân ph́ gia nếu muốn. Thực tế trong số họ cũng đă có
người đỗ đạt cao, có thể nhận lấy sắc phong của vua (hay của quan
toàn quyền, thống sứ) để ra làm quan (một số đă từng ra làm quan như
Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh,…) nhưng họ đă chọn con đường dấn
thân v́ đất nước. Những hoạt động cách mạng của họ, chưa kể
nỗi nguy hiểm do chính sách đàn áp của thực dân và phong kiến (hàng
loạt chí sỹ đă bị giết hoặc bị tù đày), mà nếu thành công th́ cũng
không phải để họ “được làm vua”, mà để xây dựng một chế độ xă hội
hoàn toàn khác: chế độ dân trị (dân chủ). Người nhà nước,
theo quan niệm của các sỹ phu, chẳng qua là những người được nhân
dân thuê mướn để quản lư xă hội:
“Than
ôi, nước không phải là gia tài tổ nghiệp của dân ta hay sao? Dân
nước ta không phải là chủ nhân đời đời giữ gia tài tổ nghiệp này
chăng? Sao dân ta lại bỏ cái quyền làm chủ nhân, bỏ cái chức trách
làm chủ nhân của ḿnh? Đem sự mất c̣n hưng phế của cái gia tài tổ
nghiệp gửi cho bọn nhân công được thuê mướn để trông nom,
không những không thể khiến gia tài tổ nghiệp măi măi do ḿnh thừa
kế, mà lại c̣n không cả gia tài tổ nghiệp này phải thuộc về ḿnh” (Phan
Bội Châu).
Dân
quyền như
vậy là một quyền hết sức tự nhiên, không phải do giai cấp
thống trị ban phát. Xem thế th́ các cụ đă “phản bội” lại quyền lợi
của giai cấp của ḿnh, nhưng đó là sự “phản bội” vĩ đại, là “cái ǵ
của Xê-da trả lại cho Xê-da”.
Một loại
đặc quyền khác của nho sỹ trong chế độ quân trị là danh vọng,
mà thực ra phần nhiều là hư danh. Các sỹ phu đương thời cũng ném con
mắt khinh bỉ vào các thứ hư danh đó:
“Người trong nước (quân trị) không cần nhân cách, không cần học thức,
không cần làm sự nghiệp ǵ, chỉ tính sao mua được chút quan, nho nhỏ
cũng được chút phẩm hàm (…). Những nước ấy th́ trong nước nó chỉ
lủng củng có quan với phẩm hàm thôi, chứ có nhân vật ǵ nữa đâu,
nước nó thường bị mất trước hơn mọi nước” (Ngô Đức Kế).
C̣n có
một thứ đặc quyền nữa cũng bị các cụ lên án gay gắt là đặc quyền
“yêu nước”. Chế độ quân chủ “cấm học tṛ và dân không được nói
đến chính trị”, v́ )“biết
chính trị nhiều th́ sinh ra cách mạng” (Phan Châu Trinh.
Nhưng
hậu quả là đặc quyền ấy quay trở lại tiêu diệt chính nó: “Có hay
đâu giữ khéo quá th́ dân trong nước nó ngu, không động đến ngôi vua
thật, mà các nước ngoài họ tới họ lấy th́ dễ như chơi, nghĩa là dân
nó ngu, nó không biết nước là cái ǵ nữa cả. Ta thử xem gương nhà
Tống trước th́ mất với Liêu, sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông
Cổ; c̣n nhà Minh th́ lại mất với Măn Châu, Cao Ly th́ mất với Nhựt
Bổn, An Nam th́ mất với Tây” (Phan Châu Trinh).
3.
Đón nhận những ǵ tiến bộ đến từ phía kẻ thù với một tinh thần cầu
thị cao
Ban đầu,
người phương Tây đến nước ta để buôn bán, chưa phải là kẻ thù. Nhưng
vua quan nhà Nguyễn theo thói quen kỳ thị của Nho giáo hủ lậu và
cũng học đ̣i các vua chúa Trung Hoa, tự coi ḿnh là “văn minh” mà
miệt thị người Tây là “di”, “rợ”, nên đă thi hành chính sách “bế
quan toả cảng” với họ. Thậm chí khoa học, kỹ nghệ, máy móc của
phương Tây cũng bị coi là là thứ “quỷ thuật”, “cơ xảo”, có thể làm
hỏng đạo Thánh hiền! Về sau, phải đương đầu với sức mạnh của họ th́
lại quá sợ hăi, vào trận chưa đánh đă bỏ chạy, cuối cùng triều đ́nh
bó tay đầu hàng (khi chưa đến mức phải đầu hàng). Và khi thua rồi
th́ không t́m căn nguyên, lại đổ cho “mệnh trời”, cho “khí số” đă
hết.
Nhưng
đến thế hệ các sỹ phu đầu thế kỷ XX, nhờ đọc tân thư, nhờ độc
lập suy nghĩ, họ hiểu ra căn nguyên v́ sao mà Tây thắng ta thua. Ấy
là chỉ bởi cái nguyên lư “ưu thắng liệt bại” (mạnh được yếu thua)
của cuộc cạnh tranh sinh tồn tất yếu này. Nhưng v́ sao người Âu mạnh
giỏi mà ta yếu hèn? Văn minh tân học sách (một bài trong sách
giáo khoa của Đông Kinh nghĩa thục thời đó) cắt nghĩa (tóm tắt)
như sau:
Thứ
nhất, về tư tưởng, văn minh châu Âu lấy nguyên lư động làm nguyên lư
tồn tại và phát triển. Muốn động th́ phải khuyến khích sự tương phản (đối
lập): “Thế nào là ảnh hưởng tương phản? Xét ra các nước châu Âu,
trên có nghị viện duy tŕ quốc thị, dưới có báo quán để đạo đạt hạ
t́nh. Đại trước tác th́ có Dân ước của Lư Thoa (Khế ước xă hội của
Rousseau), Tiến hoá luận của Tư Tân Đắc (Spencer), Dân quyền thiên của
Mạnh Đức Tư Cưu (Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu). Suy
rộng ra, nào diễn thuyết, nào thi ca, đều cốt để phát huy cái chủ
nghĩa yêu nước, yêu ṇi giống. Nước ta có thế không? Làm văn sách
th́ chỉ sợ phạm huư, dâng thơ cho người trên th́ chỉ e phạm tội vượt
phận nói leo, chỉ chừng đó là đă khác hẳn (các nước) không cấm (nhân
dân) bàn bạc”.
Thứ
hai, về chính trị, “Người châu Âu họ tổ chức chính quyền trong nước
có chính thể lập hiến, có chính thể quân dân cộng hoà. Có số bao
nhiêu người đấy th́ cử một người làm nghị viên. Hễ bàn đến một việc
ǵ th́ trước phải khai hội, kẻ bàn người nói, sớm sửa đi chiều sửa
lại, cốt làm cho đúng chân lư, hợp với t́nh h́nh. Nước ta có thế
không? Hành chính th́ cấm thay đổi, sửa sang; dùng người th́ quư sự
im ĺm, lặng lẽ; chiếu theo lệ cũ, nhưng lệ không nhất định; luật
cũng có ban bố đấy, nhưng dân gian không được đọc luật”.
Thứ
ba, về văn hoá – tinh thần, “Người Âu cho nước và dân là có quan hệ
mật thiết với nhau. Cho nên có chính thể cộng hoà, mà quốc thể tức
là gia thể; có tục thượng vơ mà quốc hồn tức là gia hồn; có lệ hỗ
trái (cho vay), mà quốc mạnh tức là gia mạnh; có lối kiêm biện (công
chức được giao phụ trách một số công việc nhất định), mà quốc sự tức
là gia sự; có phái tự do, mà quốc quyền tức là gia quyền. Nước ta có
thế không? Ngoài văn chương, không có ǵ là quư; ngoài áp chế không
có ǵ là tôn chỉ; ngoài phục ṭng không có ǵ là nghĩ xa”.
Trên
nguyên lư đó, các sỹ phu Nho học kiên quyết đoạn tuyệt với nền học
“chi hồ giả dă”, cái nền học đă làm cho “người ngu nước yếu”, và họ
ra sức cổ vũ học theo văn minh phương Tây:
Văn minh ta phải học khôn
Theo thầy Anh, Pháp, noi gương Hoa Kỳ
Trăm nghề học, học chi cũng học
Học thiên văn rồi học địa dư
(Khuyết danh, Quảng học vấn)
Và trước ta, những nước học theo phương Tây đều trở nên văn minh:
Xiêm La trước thiệt là ngu dại
Rước thầy Anh học măi khôn
Bây giờ dân đă tỉnh hồn
Lá cờ độc lập, gió c̣n phất phơ
Nhật Bổn nọ thuở vừa ngu nhược
Kén người đi các nước học hành
Bây giờ dân đă văn minh
Tiếng anh hùng đứng một ḿnh cơi Đông…
(Khuyết danh, Quảng học vấn)
Thực ra
để đoạn tuyệt cái quá khứ vàng son của ḿnh, các cụ cũng đầy trăn
trở, thậm chí đau đớn.
Trước đó chưa lâu (cuối thế kỷ XIX), các cụ Nho học của ta c̣n tẩy
chay tất cả những ǵ thuộc về “Tây dương”: không cho con đến trường
Tây, không dùng dầu tây (dầu hoả), mạt sát những công chức làm cho
sở Tây dám cả gan “vứt bút lông đi giắt bút ch́”,… Ngoài ra, những
con người vốn nhiều đời lặn lội trong “rừng Nho biển Thánh” (Rừng
Nho biển Thánh mênh mông/ Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay –
Nguyễn Đ́nh Chiểu”), nay đến với nền tư tưởng và học thuật mới, cũng
chẳng dễ ǵ tiếp thu. Thế nhưng để cứu nước cứu đời, các cụ đă
phải chấp nhận những cái vốn không thể chấp nhận. Ngoài chấp
nhận những điều nói trên, có thể c̣n phải kể cái khó chấp nhận nữa
là chấp nhận quy luật cạnh tranh, v́ nó rất “nghịch”
với đạo Thánhhiền. Văn minh tân học sách viết: “Văn minh (hay
phát triển) không phải chỉ có thể mua bằng giá trị mà thôi, mà c̣n
phải mua bằng đau khổ nữa. Giá trị là ǵ? Tức là tư tưởng. Đau khổ
là ǵ? Là cạnh tranh. Càng tư tưởng th́ càng cạnh tranh, càng cạnh
tranh th́ càng tư tưởng. Rồi do đấy, hết thảy các khoa thanh học,
quang học, trọng học, điện học (…) không môn học nào là không phừng
phực nảy ra. Lư do để đi tới chỗ cực điểm của văn minh là như thế đó”.
Nếu xét một cách cục bộ th́ các phong trào vận động canh tân đất
nước đầu thế kỷ XX đều thất bại. Tuy nhiên, xét đóng góp của nó
trong tiến tŕnh lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thậm chí đến
tận thời điểm này, th́ không hẳn là thất bại, mà có lẽ chỉ nên nói
là thành công không mỹ măn. Có thể nói như vậy, v́ các
phong trào ấy đă tạo ra cơ sở và lực đẩy để xă hội Việt Nam bước vào
thời kỳ hiện đại, hội nhập với thế giới văn minh. Thực tế ta
thấy từ những năm sau Thế chiến thứ nhất, tận dụng chính sách khai
thác thuộc địa, tận dụng sách lược “hợp tác với người bản xứ” (tức
“Pháp Việt đề huề”) của người Pháp, người Việt Nam, mà tiên phong là
đội ngũ trí thức cũ nói trên (sỹ phu Nho học, sau này gọi là cựu
học) cùng với các trí thức mới (tân học) đă chủ động nắm
lấy cơ hội này để phát triển. Đường sắt, bưu điện, ngân hàng, trạm
khí tượng, nhà máy, hải cảng, báo chí, trường đại học, viện nghiên
cứu,…. ra đời và từ đó kéo theo sự ra đời của nhà tư sản (bây giờ
gọi là doanh nhân); ra đời các ông phán, ông kư, ông thông; các
bácsỹ, luật sư, kỹ sư, nhà báo, nhà văn, nhà giáo,… Nếu cứ nhất nhất
tẩy chay người Pháp hoặc ngược lại, chỉ biết cúi đầu làm cu-li cho
họ th́ chắc cho đến năm 1945, đất nước ta vẫn không có ǵ. Nhưng dân
tộc ta, dẫn đầu là tầng lớp trí thức, vừa vẫn tiếp tục chống thực
dân Pháp lại vừa chủ động nắm lấy văn minh Pháp, hợp tác với những
người Pháp tiến bộ và kết quả là đẩy xă hội Việt Nam phát triển hết
sức mau lẹ. Ḷng yêu nước, tinh thần dân tộc cũng theo đó mà
trưởng thành. Các yếu tố này đóng góp quan trọng vào thắng lợi của
cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. Chưa kể, khi vừa giành chính
quyền, ta có ngay những cơ sở vật chất cần thiết cùng đội ngũ các
nhà chuyên môn làm rường cột cho đất nước những năm đầu độc lập và
kháng chiến chống Pháp.
Thưa quư vị Trung ương
Đảng
Cộng sản Việt Nam đă từng là ngọn cờ tiên phong trong phong trào
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp cần lao. Trong quá tŕnh
ấy, Đảng có lúc phải tận dụng ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin và CNXH.
Đến nay những thứ này đă tỏ ra sai lầm và bất cập và do đó, đặt Đảng
vào t́nh thế tiến thoái lưỡng nan. Chúng tôi thực sự thông cảm điều
đó. Nhưng nếu cứ tiếp tục độc tôn chủ nghĩa Mác – Lênin (một thứ học
thuyết nhiều sai lầm, hoang tưởng), nếu cứ tiếp tục xây dựng CNXH (một
mô h́nh đầy phi lư, trái quy luật), nếu cứ tiếp tục tẩy chay
thế giới
phương Tây (một chủ trương đi ngược thời đại, v́ thực chất thế giới
phương Tây là những mô h́nh xă hội dân chủ, chí ít cũng văn minh,
tiến bộ hơn ta nhiều lần) th́ chỉ tiếp tục đưa dân tộc – và cả Đảng
– vào chỗ bế tắc. Trước mắt, sự suy yếu của nước ta thực sự đang trở
thành miếng mồi ngon cho một đế quốc đang trỗi dậy đầy tham vọng: đế
quốc Trung Hoa. Nước mất th́ Đảng cũng không c̣n, hoặc may mắn lắm
th́ cũng chỉ được cái hư vị như triều đ́nh nhà Nguyễn dưới thời cai
trị của thực dân Pháp mà thôi. Chúng tôi nói “may mắn lắm”, v́ khả
năng được như triều Nguyễn cũng khó. Người Pháp chiếm Việt Nam không
cần tiêu diệt văn hoá Việt Nam; trái lại, c̣n giúp người Việt Nam
bảo tồn văn hoá (trước Cách mạng có Viện Viễn Đông Bác cổ ở Hà Nội,
có Hội Đô thành Hiếu cổ ở Huế,…) như muốn tăng sự đa dạng văn hoá
cho chính quốc. C̣n người Trung Quốc là hàng xóm của Việt Nam ; họ
không chỉ muốn nô dịch dân ta mà c̣n muốn thôn tính lănh thổ nước ta,
biến nước ta thành quân huyện của Trung Quốc. Bởi vậy, trong lịch sử,
mỗi khi chiếm được nước ta, họ đều thi hành chính sách đồng hóa dă
man và thâm độc nhằm xoá bỏ văn hoá, lịch sử và giống ṇi dân tộc
Việt Nam . Chính sách này cũng đă từng áp dụng đối với nhiều nước bị
họ thôn tính. |
|
|
Thiết
tưởng nhân dân Việt Nam sẵn sàng ủng hộ Đảng tiếp tục lănh đạo đất
nước, nếu Đảng tự “lột xác”, tự “thay máu” để trở về với nhân dân,
với dân tộc. Thực chất th́ Đảng cũng đă từ bỏmột nửa chủ nghĩa Mác –
Lênin và CNXH khi chấp nhận kinh tế thị trường. Chấp nhận kinh tế
thị trường cũng là chấp nhận dân chủ trong kinh tế, nay chỉ c̣n một
nửa c̣n lại là chấp nhận dân chủ trong chính trị. Nhưng chính sự nửa
vời này đă dẫn đến t́nh trạng “đầu Ngô ḿnh Sở”: kinh tế thị trường,
vận hành theo nguyên lư thị trường nhưng bên trên lại là nhà nước
XHCN, vận hành theo nguyên lư XHCN. Điều đó trái hẳn với nguyên lư
của chủ nghĩa Mác – Lênin: thượng tầng kiến trúc (chính trị) phải
phù hợp với hạ tầng cơ sở (kinh tế). Cốt lơi của kinh tế thị trường
là tự do cạnh tranh, lẽ ra nó phải đi kèm với nhà nước
pháp quyền, xă hội dân sự và tự do báo chí, tự do ngôn luận để
đặt nền kinh tế tự do cạnh tranh trong ṿng kiểmsoát của pháp luật
và công luận. Thế nhưng trong thể chế “Đảng lănh đạo”, thực chất là
Đảng toàn trị, đă làm cho các yếu tố sau không thể nào có được (hoặc
có một cách h́nh thức). Kẻ có tiền và kẻ có quyền tất nhiên sẽ “đi
đêm” (và cả “đi ngày”) với nhau mà không ai làm ǵ được. Đó là cội
nguồn của tham nhũng, của lạm quyền, của tội ác và của tất cả các tệ
nạn xă hội. Tất nhiên xă hội nào cũng có các hiện tượng này, nhưng ở
ta khác họ ở chỗ là nó gần như vô phương cứu chữa.
Vừa qua
chúng tôi đă thất vọng qua các Hội nghị BCH Trung ương 4, 5, 6; mới
đây, lại thêm thất vọng qua phát biểu khai mạc của ông Tổng bí thư
tại Hội nghị BCH Trung ương 7 khi thấy chủ trương vẫn giữ nguyên
tinh thần cũ, chỉ có điều chỉnh nhỏ. Tuy vậy chúng tôi vẫn hy vọng
vào trí tuệ của đông đảo Ban Chấp hành Trung ương, ở đó có nhiều vị
sống gần dân hơn, thực tế hơn; ở đó, vẫn c̣n nhiều vị có tŕnh độ và
có trách nhiệm. Lịch sử mấy chục năm qua đă chứng minh, nếu ở trên
thượng tầng có ông Trường Chinh bảo thủ, cứng nhắc, th́ ở tỉnh vẫn
có ông Kim Ngọc thương dân, dám vượt rào. Và ngày nay vẫn thấp
thoáng những Kim Ngọc ở các ông (bà) Nguyễn Thị B́nh, Nguyễn Văn An,
Nguyễn Minh Nhị,…
Đề cập
lớp nhà Nho tiên phong đầu thế kỷ XX làm bài học cho Đảng CSVN hôm
nay, chúng tôi cũng mới chỉ đề cập tinh thần đổi mới nói
chung, c̣n về cách cách thức đổi mới, nếu
thấy chủ
trương vẫn giữ nguyên tinh thần cũ, chỉ có điều chỉnh nhỏ. Tuy vậy
chúng tôi vẫn hy vọng vào trí tuệ của đông đảo Ban Chấp hành Trung
ương, ở đó có nhiều vị sống gần dân hơn, thực tế hơn; ở đó, vẫn c̣n
nhiều vị có tŕnh độ và có trách nhiệm. Lịch sử mấy chục năm qua đă
chứng minh, nếu ở trên thượng tầng có ông Trường Chinh bảo thủ, cứng
nhắc, th́ ở tỉnh vẫn có ông Kim Ngọc thương dân, dám vượt rào. Và
ngày nay vẫn thấp thoáng những Kim Ngọc ở các ông (bà) Nguyễn Thị
B́nh, Nguyễn Văn An, Nguyễn Minh Nhị,…
Đề cập
lớp nhà Nho tiên phong đầu thế kỷ XX làm bài học cho Đảng CSVN hôm
nay, chúng tôi cũng mới chỉ đề cập tinh thần đổi mới nói
chung, c̣n về cách cách thức đổi mới, nếuĐảng chấp nhận, tôi nghĩ sẽ
có những chuyên gia vạch ra lộ tŕnh cụ thể. Tinh thần đổi mới tóm
lại là tinh thần cầu thị, sẵn sàng từ bỏ tất cả những ǵ cũ
nát, bảo thủ, hoang tưởng, đặc biệt, dám từ bỏ những
đặc quyền đặc lợi phi lư của ḿnh. Nếu đặt Tổ quốc và
nhân dân lên trên hết th́ không có ǵ không thể vượt qua. Nếu làm
được điều đó, Đảng không những vẫn tiếp nối được sự nghiệp cao cả
của thế hệ các nhà cách mạng cộng sản đầu tiên mà c̣n cứu được nguy
cơ Đảng sụp đổ.
Do khuôn
khổ một bức thư, chúng tôi không thể phân tích và biện luận đầy đủ,
mà chủ yếu nêu lên vấn đề. Hy vọng sẽ được trao đổi dân chủ và cởi
mở.

Đào Tiến Thi
(Ngọc Hà, đầu tháng 5-2013)
đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam
(thẻ
Đảng số 97 003164) |
|